Những cái tết khó quên

Đã mười tám năm nay tôi không về ăn Tết ở Hải Phòng, nhưng mỗi dịp cuối năm, khi vòm trời cuối chạp bàng bạc một màu mây xám, nhìn ra đường phố Hà Nội thấy những ky-ốt xây tạm phục vụ hàng Tết mọc lên với nhiều màu sắc, người xe qua lại chộn rộn khác thường, là lòng tôi thức dậy con đường Năm heo may cuối chạp và chuyến xe về Tết chen chúc, lầm lũi ngày nào.

 

Gia đình tôi mười sáu năm ở Hải Phòng, chỉ trừ năm 1975 tôi ăn Tết ở Sài Gòn, mười lăm Tết còn lại, năm nào tôi cũng ở Hải Phòng. Người ta thường bảo "miếng ngon nhớ lâu", với tôi, thời thiếu thốn về vật chất nhưng tình người nồng ấm cũng không dễ gì quên được. Gia đình tôi ở khu nhà năm tầng gần ngã tư An Dương, chỉ cần nói Nhà năm tầng là nhận ra ngay vì trong nhiều năm, đây là khu nhà có nhiều tầng nhất ở Hải Phòng lúc ấy. Một căn hộ hai phòng 28 mét vuông được chia cho bốn gia đình, bốn bà mẹ là bác sĩ hoặc y tá của Bệnh viện Trẻ em Việt Đức có bốn ông chồng đều là bộ đội ở xa và có bốn đứa con trai chênh nhau chưa đầy mười tháng tuổi. Giờ hành chính, bốn bà mẹ đi làm, bốn đứa con đi nhà trẻ, căn hộ cửa khóa bốn khoá nối tiếp để cho bất cứ bà mẹ nào về trước cũng có thể mở được cửa. Sau giờ làm việc, bốn bà mẹ lai bốn cu con về nhà và bốn cái lò mùn cưa được nhen lên trong cái bếp chật hẹp vốn dùng cho một gia đình, khói bay sặc sụa. Và bốn bà mẹ vừa bế con vừa nấu cơm chiều. Đó là những ngày cả bốn ông chồng đều vắng nhà, còn ngày Tết, ít ra cũng có hai ông chồng tranh thủ về thăm nhà, cao điểm đủ cả bốn ông, qua lại người va vào nhau là chuyện thường tình, xin lỗi nhau làm gì cho khách sáo! Tôi đã ăn mười lăm cái Tết ở căn hộ ấy, làm sao mà quên được.

Thường thường chập choạng tối 28 Tết tôi mới về tới căn hộ đó. Không phải công việc cơ quan quá bận nên phải nghỉ Tết muộn, ngược lại, báo Tết đã phát hành trước đó vài tuần nên còn có việc gì nữa đâu, về Tết muộn chẳng qua là còn chờ khoản thịt Tết của cơ quan. Dạo đó vài cân thịt lợn là nỗi lo chính của mọi gia đình khi Tết đến. Trước Tết vài ba tháng, Ban trị sự tạp chí đã đánh xe về Nam Định, Thái Bình cố mua được vài con lợn ở thôn quê về nhốt phía sau cơ quan để nuôi. Đến sáng 28 Tết bắt mổ ra chia đều cho mọi người trong cơ quan, mỗi người vài cân có đủ các bộ phận của con lợn, anh em gọi đùa là "thịt đa khoa", mỗi phần gói vào một tờ báo cũ, người ở xa như tôi tất tả ra bến xe mà xếp hàng, vì đi xe tàu Tết khổ như thế nào thì ai cũng hiểu.

Với vài cân "thịt đa khoa" ấy, tôi tự tin nện gót giày đen quân nhu trên đường phố từ ngã tư An Dương về sân nhà Năm Tầng. Vợ con mở cửa ra đón, mặt mày hớn hở, một phần vì gặp được người mình chờ đợi, phần không nhỏ là bởi túi thịt nằng nặng trên tay có thể hãnh diện trước ánh nhìn của ba gia đình còn lại, bởi số thịt ấy là thứ quan trọng nhất bảo đảm cho hai chữ ănTtết có nội dung!

Có một nhiệm vụ quan trọng không thể đợi ra Giêng được, đó là về thăm quê vợ ở một xã sát biển thuộc huyện ngoại thành Tiên Lãng. Hoa cải củ nở trắng hai phía quốc lộ 10 từ Kiến An đến Khuể. Với chiếc xe đạp Phượng Hoàng, những ngày cuối năm không biết bao lần tôi cặm cụi đạp đi trong hanh hao gió bấc, trong sùi sụt mưa phùn và có cảm giác khi nào cũng bị ngược gió! Gần đây nghe tin sắp khởi công xây dựng cầu Khuể, ôi giá chi cầu ấy xây sớm hơn vài ba chục năm chắc hẳn sự vất vả cuối năm ngày đó nhẹ gánh đôi phần. Trong một bài thơ tôi từng viết : Một con đường gió mùa nào cũng ngược/ Một chuyến phà người chờ hai bờ nước là nói về con đường và bến phà này đây.  Người đông, xe đông, phà ít mà ai cũng mang cảm giác vội vàng "năm hết Tết đến" nên không tránh khỏi chen chúc,có khi còn to tiếng với nhau bởi chậm chân một tý là nhỡ phà phải chờ thêm hàng giờ đồng hồ. Phà Khuể bao nhiêu năm trong ký ức tôi là thế, ai qua được, bước chênh chênh lên dốc phà ngoảnh lại nhìn hàng trăm người chờ bên bờ nước bên kia đều có cảm giác mình là người may mắn.

Rõ ràng đó là thời kỳ chúng ta thật thiếu thốn về vật chất, nhưng tình cảm con người nồng ấm lạ. Ở các làng quê người ta dành trọn vẹn ngày mồng một Tết cho gia đình, nhưng ở Hải Phòng những ngày ấy chúng tôi không thế. Phải chăng vì phần lớn có gốc gác ở nơi khác, nay sống ở thành phố nên ít kiêng cữ hay bởi dân văn nghệ phóng túng mà từ sáng mồng một Tết chúng tôi đã tìm gặp nhau. Thường thường là Thanh Tùng đến nhà tôi hoặc ngược lại, sau đó cùng nhau sang nhà Duy Khán, Đào Cảng rồi cả bốn kéo đến nhà Nguyễn Xuân Ngạc, Trịnh Hoài Giang, Đoàn Min...Cứ như thế khi gặp Thi  Hoàng hoặc đến nhà lão tướng Nguyễn Viết Lãm thì con số đã ngót chục người. Tôi nhớ dạo ấy trong các bạn làm thơ, không nhà nào có xa lông hay bàn ghế tiếp khách, mà chỉ thảm bẹ ngô trải xuống nền xi măng, người ngồi vòng quanh, thêm người thì vòng rộng ra, rộng đến chạm tường, chạm cửa thì ngồi sát vào nhau mà 'xuất bản" tác phẩm của mình. Đầu tiên là đọc những bài mới làm trong dịp Tết, sau thì lùi thời gian và nới rộng đề tài, ít khi gặp nhau đông vui, lại có chai rượu chanh và mấy sợi mứt dừa đưa đẩy, người đọc thêm hào hứng mà người nghe cũng dễ "vào". Những cuộc như thế Thanh Tùng thích đọc thơ ứng tác, đề tài do các bạn thơ ngồi quanh yêu cầu. Nghe xong đề ra, Thanh Tùng với tay uống cạn một chén rượu, rồi đọc ngay bài của mình, vừa đọc vừa nghĩ, toàn là thơ tự do, nói chung là lung tung nhưng có câu xuất thần đáo để!

Có người bảo rằng nhà thơ giống loài phong lan ở chỗ chẳng cần ăn uống gì, chỉ thở khí trời là sống được. Trong ký ức của tôi về bạn bè văn nghệ ở Hải Phòng những năm đó, hầu như không có ký ức về ăn uống, mà chỉ toàn nhớ chuyện dềnh dàng kéo nhau đi từ nhà này sang nhà khác và chuyện ngồi đọc thơ cho nhau nghe mà chúng tôi quen gọi là xuất bản mồm. Nhưng những ai bảo rằng các nhà thơ chỉ có lơ mơ, không thực tế một tý nào thì chưa hẳn đã đúng. Lần ấy mừng sự kiện gia đình tôi được ở cả căn phòng mười bốn mét vuông (vì cô bác sĩ trước cùng ở chung nay được bệnh viện phân cho căn phòng khác), dịp Tết đó mấy nhà thơ Hải Phòng ngồi xếp bằng đọc thơ trên sàn xi măng nhà tôi. Khi chúng tôi đang say sưa với thi phú trong phòng, thì ngoài thềm, mấy đứa trẻ con ngoài phố leo qua tường chắn vào đánh đáo, cãi nhau chí choé. Chả là cái thềm nhà tôi rộng bốn mét vuông, quay ra phía đường Tôn Đức Thắng, nhưng vì bức tường chỉ xây lửng cao chưa đầy một thước, nên coi như của công, ban ngày bọn trẻ con vào đánh bài và ban đêm có đôi trai gái vào ngồi đó tình tự ngay cửa sổ, sát giường nằm của cả nhà. Thanh Tùng là người đầu tiên phát hiện ra sự lãng phí bốn thước vuông thềm đó và tuyên bố sẽ có cách cải tạo nó.Thế rồi một ngày trong dịp tôi về nghỉ tranh thủ, anh thuê xích lô chở đến một xe đầy lá thép phế liệu, cái thứ mà xí nghiệp bỏ đi sau khi đục lấy các phần chính để sản xuất các loại hộp, anh còn giúp tôi dựng lên một bức vách kiên cố mà mỹ thuật cũng không đến nỗi nào, nội bất xuất, ngoại bất nhập, giành lại cho gia đình tôi chủ quyền bốn mét vuông quý giá. Bạn bè Hải Phòng giúp tôi nhiều thứ trong những năm khó khăn đó, mà việc làm của nhà thơ Thanh Tùng như là một biểu tượng, có lẽ theo tôi đến hết cuộc đời. Đã gần hai chục năm nay, mỗi lần theo xe ô tô từ Hà Nội xuống, khi qua cầu An Dương một quãng, không bao giờ tôi quên nhìn tìm căn nhà tầng một của khu nhà năm tầng, dù căn hộ đó từ lâu đã là của chủ khác, bờ rào bằng những lá sắt tiết kiệm tự tạo sơn màu xanh cũng đã dỡ đi từ lâu, nhưng tôi như gặp lại nguyên vẹn, nguyên vẹn một thời Hải Phòng tuy thiếu thốn vật chất mà ấm áp tình người.

Nhà thơ Vương Trọng