Những Bộ luật đầu tiên của Việt Nam: Dấu ấn rưc rỡ của văn minh người Việt

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, tuân thủ pháp luật trở thành một nét văn minh không thể thiếu. Tại Việt Nam, từ những bộ luật đầu tiên ra đời, vẫn còn đó bài học trị nước - xuất phát từ văn hóa khoan dung, tinh thần nhân văn của người Việt.

Trị nước phải có pháp luật

Theo những tư liệu lịch sử, trước thời Lý, ở Việt Nam chưa có luật thành văn. Pháp luật chủ yếu tồn tại dưới dạng các quy ước và tục lệ. Thế rồi, từ thời Lý trở đi, một trong những tiến bộ quan trọng, ấy là các nhà nước quân chủ đã đạt được một số thành tựu trong lĩnh vực lập pháp, đặc biệt là việc ban hành luật thành văn. Mở đầu là Bộ luật Hình thư thời Lý (năm 1042), tiếp theo là các Bộ luật Hình thư thời Trần (năm 1341). Thế nhưng, phải đến Bộ Quốc triều hình luật thời Lê (còn gọi là Luật Hồng Đức - năm 1483) mới được xem là bộ luật thành văn hoàn chỉnh đầu tiên đề cao tính nhân văn và những giá trị pháp lý đi trước thời đại…

Bộ luật Hồng Đức đánh dấu tư tưởng nhân văn tiến bộ trong lịch sử pháp quyền phong kiến Việt Nam. (Ảnh internet).

Bộ luật Hồng Đức đánh dấu tư tưởng nhân văn tiến bộ trong lịch sử pháp quyền phong kiến Việt Nam. (Ảnh internet).

Với Bộ luật Hình thư thời Lý, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu”.

Lý Thái Tông (1000 - 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý, cai trị trong 26 năm (1028-1054). Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông được xem là khởi đầu sự thịnh vượng của nhà Lý. Các sử gia cho rằng, Lý Thái Tông cũng như nhiều hoàng đế nhà Lý khác luôn bao dung, đề cao nhân nghĩa - bởi các vị vua này ảnh hưởng của quốc giáo là đạo Phật. Và như thế, nhà Lý trường tồn trên 200 năm lịch sử, đưa đất nước vào giai đoạn cường thịnh có phần đóng góp to lớn của Hình thư, cai trị đất nước bằng pháp luật.

Tuy nhiên, phải đến khi Bộ luật Hồng Đức (còn có tên gọi khác là Quốc triều hình luật, Lê triều hình luật) ra đời dưới thời vua Lê Thánh Tông (1470-1497), mới đánh dấu tư tưởng nhân văn tiến bộ và kỹ thuật lập pháp tiêu biểu trong lịch sử pháp quyền phong kiến Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới. Trong thời trị vì của vua Lê Thánh Tông, nước Đại Việt đã phát triển rực rỡ về mọi mặt. Năm 1428, vua Lê Thái Tổ đã chỉ rõ: “Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa, đặt ra pháp luật là để dạy cho các tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh, chớ để phạm pháp”.

Còn nguyên giá trị thời sự

Bộ luật Hồng Đức bảo vệ người phụ nữ xưa, còn nguyên giá trị đến ngày nay. (Ảnh tư liệu).

Bộ luật Hồng Đức bảo vệ người phụ nữ xưa, còn nguyên giá trị đến ngày nay. (Ảnh tư liệu).

Cho đến nay mặc dù đã trải qua gần 600 năm, nhưng các quy định pháp luật của Bộ luật Hồng Đức với “toàn bộ kỷ cương phép nước của quốc gia Đại Việt đều được đúc kết lại trong 722 điều cụ thể” vẫn còn nguyên giá trị thời sự …

Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp thời phong kiến, nhà nước quy định con gái có quyền thừa kế ngang bằng với người con trai trong trường hợp người con trai trưởng mất hoặc chết. Bên cạnh đó, bộ luật cũng phân định về nguồn gốc tài sản của vợ chồng bao gồm: tài sản riêng của mỗi người và tài sản chung của cả hai vợ chồng. Việc phân định này góp phần xác định việc phân chia thừa kế cho các con khi cha mẹ đã chết hoặc chia tài sản cho bên còn sống nếu một trong hai vợ chồng chết trước. Có thể nói, đây là một điểm mới tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức bởi đến nay, tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã kế thừa về việc phân chia tài sản chung và tài sản riêng của vợ và chồng…

Chưa kể, chương Thông gian quy định các hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi xâm hại tình dục, nhân phẩm tiết hạnh, nhất là đối với trẻ em gái. Tội gian dâm với vợ người khác, hay quyến rũ con gái chưa chồng đều bị xử tội Đồ hay Lưu và phải nộp tiền tạ, kẻ dắt mối cũng phải chịu tội. Hiếp dâm ngoài bị xử tội lưu hay tội chết còn phải nộp tiền tạ hơn một bậc so với tội gian dâm thường. Đặc biệt, các ngục quan, ngục lại gian dâm với đàn bà, con gái có việc kiện thì xử tội nặng hơn tội gian dâm thường một bậc…

Hộ thế Trung Hiếu đền Đồng Cổ, Tây Hồ, Hà Nội đã có từ ngàn năm trước - thời vua Lý Thái Tông với bộ luật thành văn thuở ban đầu. (Ảnh: Ban Quản lý đền Đồng Cổ - Tây Hồ, Hà Nội).

Hộ thế Trung Hiếu đền Đồng Cổ, Tây Hồ, Hà Nội đã có từ ngàn năm trước - thời vua Lý Thái Tông với bộ luật thành văn thuở ban đầu. (Ảnh: Ban Quản lý đền Đồng Cổ - Tây Hồ, Hà Nội).

Nhiều ý kiến cho rằng, bộ luật thời Lê sơ dù không biết chính xác ai là tác giả, nhưng chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng vua Lê Thánh Tông. Ông đã kết hợp nhuần nhuyễn hệ tư tưởng Nho giáo với phong tục tập quán và truyền thống dân tộc. Mặt khác, có lẽ do cuộc đời của vị vua này chịu ơn rất nhiều người phụ như bà thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao, bà Nguyễn Thị Lộ… vì thế ông muốn bảo vệ người phụ nữ thoát khỏi sự khinh rẻ và bị chà đạp trong xã hội phong kiến. Cho đến nay, chúng ta vẫn đang đấu tranh vì sự bình đẳng cho phụ nữ, thì từ thời Lê sơ, vị vua anh minh ấy đã có cái nhìn thấu hiểu và trân trọng người phụ nữ biết bao.

Việc bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, trong đó có truyền thống thượng tôn pháp luật, lấy dân làm gốc, đã xuất phát từ ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông…

Có thể nói, xu hướng hưng thịnh của chế độ phong kiến nhà Lê, lòng nhân ái của các vị vua lỗi lạc như Lê Thánh Tông và quần thần của một triều đại đang lên là yếu tố làm cho những quy định trong Bộ luật Hồng Đức mang trong mình nhiều yếu tố tiến bộ, dùng pháp luật để bảo vệ thuần phong mỹ tục và dùng thuần phong mỹ tục để đưa con người hướng về chữ nhân, chữ nghĩa, biết phục tùng và sống theo pháp luật.

Đọc thêm

Đặc sắc Lễ hội đua thuyền tứ linh ở đảo Lý Sơn

Trải qua gần 200 năm, Lễ hội đua thuyền tứ linh ở Lý Sơn vẫn được gìn giữ, phát huy. (Ảnh: Alex Cao)
(PLVN) - Lễ hội đua thuyền tứ linh là nét văn hóa truyền thống dân gian mang đậm bản sắc của cư dân huyện đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi). Người dân Lý Sơn tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ cội nguồn tổ tiên, các vị tiền hiền buổi đầu khai sinh đất đảo và đội hùng binh Hoàng Sa đã có công bảo vệ biên cương Tổ quốc cũng như cầu cho mưa thuận gió hòa, làng xóm yên bình, mùa màng tươi tốt.

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể

Yên Bái có thêm 2 di sản văn hóa phi vật thể
(PLVN) - Tập quán văn hóa và tín ngưỡng Lễ Cúng rừng của người Mông và Nghệ thuật trình diễn dân gian Khắp Cọi của người Tày ở Yên Bái được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Đưa hát xẩm đến gần hơn với công chúng

Nghệ sĩ Vũ Thùy Linh lựa chọn dân ca nguyên gốc được phối bởi dàn nhạc giao hưởng cho album mới có tên “Tơ đồng thánh thót”. (Ảnh: L.Thủy)
(PLVN) - Mang nét văn hóa, sử dụng chất liệu âm nhạc truyền thống kết hợp với âm nhạc hiện đại là cách mà nhiều nghệ sĩ trẻ đang hướng đến. Đây cũng là một trong những đóng góp của các nghệ sĩ cho đời sống âm nhạc, để nền âm nhạc đậm đà bản sắc Việt vươn ra với thế giới.

Sắc màu thổ cẩm của người H’rê ở Quảng Ngãi

 Cụ bà người H’rê ở làng Teng dệt thổ cẩm.
(PLVN) - Giá trị văn hóa truyền thống nghề dệt thổ cẩm của người H’rê ở làng Teng (xã Ba Thành, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi) thể hiện trên từng sản phẩm gắn liền với trí thông minh, bàn tay khéo léo và kỹ thuật tinh xảo của người thợ dệt được lưu truyền từ lâu đời, bảo tồn và phát triển cho đến ngày nay.

Đình thần Đồng Nai – Lưu giữ những dấu chân mở cõi

Đình thần Đồng Nai – Lưu giữ những dấu chân mở cõi
(PLVN) -  Trong buổi đầu khẩn hoang, lập nghiệp tại phương Nam, những cư dân của đất Đồng Nai vẫn không quên tạo lập nên những cơ sở tín ngưỡng cộng đồng để đáp ứng nhu cầu tinh thần và tâm linh. Mỗi thôn, ấp đều có một ngôi đình, tọa lạc ở khu trung tâm, ở đầu làng - một dấu ấn xác định sự hình thành cộng đồng làng xã của người Việt từ hơn ba trăm năm trước.

Nghề gốm trang trí ở Biên Hòa – Dấu ấn trăm năm

Nghề gốm trang trí ở Biên Hòa – Dấu ấn trăm năm
(PLVN) - Sản phẩm gốm mỹ thuật Biên Hoà rất đa dạng và phong phú với góc độ nghệ thuật cao, đặc biệt là các tượng Phật hoặc hình tượng tranh Tứ Quý, Tứ Bình, Tứ Thời, Bát Tiên hoặc tranh dân gian. Hàng ra lò xuất cảng qua Pháp, Mỹ và không ít nước khác, bởi gốm mỹ nghệ Biên Hoà được nhiều nơi trên thế giới ưa chuộng, nhờ sắc thái men trầm lắng, đậm nét cổ kính phương Đông

Khát vọng vươn lên của Lâm Đồng qua lễ hội Festival Hoa lần thứ 10

Khát vọng vươn lên của Lâm Đồng qua lễ hội Festival Hoa lần thứ 10
(PLVN) - Không phụ lòng mong chờ, chương trình nghệ thuật đặc sắc đêm khai mạc lễ hội Festival Hoa Đà Lạt lần thứ 10- 2024 tối 5/12 đã mang đến cảm giác mãn nhãn cho của du khách, người dân xứ sở ngàn hoa. Theo Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Hoà Bình, lễ hội là cơ hội để du khách trong nước và quốc tế đến trải nghiệm những giá trị văn hóa - du lịch độc đáo, riêng có của Đà Lạt...

Nhà lầu ông Phủ hơn trăm năm bên dòng sông Đồng Nai

Nhà lầu ông Phủ hơn trăm năm bên dòng sông Đồng Nai
(PLVN) - Biệt thự cổ của đốc phủ Võ Thanh Hà được xây dựng cách đây hơn 102 năm là nơi lưu giữ những giá trị về lịch sử khẩn hoang của vùng đất Biên Hòa. Được coi là biệt thự cổ đẹp nhất Đồng Nai, đây không chỉ là di sản của dòng họ, căn nhà còn có giá trị văn hóa khi nằm trong cụm làng nghề truyền thống có tuổi đời trên 300 năm, đặc biệt là làng nghề đá Bửu Long.

Khai mạc Festival "Về miền ví, giặm - kết nối tinh hoa di sản"

Chương trình nghệ thuật 'Đôi bờ Ví, Giặm' tái hiện không gian diễn xướng ví, giặm. Ảnh: PV
(PLVN) - Tối 27/11, tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với tỉnh Nghệ An tổ chức Chương trình nghệ thuật cầu truyền hình trực tiếp "Đôi bờ ví, giặm" mở đầu chuỗi hoạt động Festival "Về miền ví, giặm - kết nối tinh hoa di sản" nhân kỷ niệm 10 năm Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Thừa Thiên Huế: Nhiều giải pháp bảo tồn nhà vườn, nhà rường cổ

Một số nhà vườn, nhà rường cổ ở Thừa Thiên Huế đang được trùng tu. (Ảnh: Thùy Nhung)
(PLVN) - Hệ thống nhà vườn, nhà rường cổ là tài sản quý giá góp phần tạo nên đặc trưng văn hóa Huế. Trải qua hàng trăm năm chịu tác động từ thời tiết, thiên tai; kiến trúc một số nhà vườn, nhà rường cổ xuống cấp nghiêm trọng. Trước thực trạng này, nhiều giải pháp bảo tồn đang được triển khai.