Nhớ thời in Báo Giải phóng
Năm 1965, tôi thoát ly gia đình tham gia kháng chiến, và một năm sau được biên chế vào Nhà in Đà Nẵng. Lúc bấy giờ cơ sở vật chất chưa có gì ngoài những anh em được cử sang Nhà in Quảng Đà đào tạo. Anh Luân trên đường ra Bắc nhận chữ, máy in; cũng thời gian đó anh Nguyễn Sĩ Hiền, anh Tín và anh Nguyễn Hoài Trợ từ Nhà máy in Tiến Bộ Hà Nội mang về những tình cảm thiêng liêng của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Từ đó, Nhà in Quảng Đà được trang bị thêm nhiều kiểu chữ và máy in tốt. Anh chị em càng hăng hái trong công việc chuyên môn, in 2 tờ Báo Giải phóng và Cờ Giải phóng cùng một số truyền đơn kêu gọi binh sĩ Mỹ-ngụy.
Năm 1965, tôi thoát ly gia đình tham gia kháng chiến, và một năm sau được biên chế vào Nhà in Đà Nẵng. Lúc bấy giờ cơ sở vật chất chưa có gì ngoài những anh em được cử sang Nhà in Quảng Đà đào tạo. Anh Luân trên đường ra Bắc nhận chữ, máy in; cũng thời gian đó anh Nguyễn Sĩ Hiền, anh Tín và anh Nguyễn Hoài Trợ từ Nhà máy in Tiến Bộ Hà Nội mang về những tình cảm thiêng liêng của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Từ đó, Nhà in Quảng Đà được trang bị thêm nhiều kiểu chữ và máy in tốt. Anh chị em càng hăng hái trong công việc chuyên môn, in 2 tờ Báo Giải phóng và Cờ Giải phóng cùng một số truyền đơn kêu gọi binh sĩ Mỹ-ngụy.
|
Đoàn tìm mộ thắp hương tưởng nhớ các liệt sĩ của Ban Tuyên huấn và Báo Giải phóng Quảng Đà còn nằm lại trong hang núi Hòn Tàu (tháng 7-2009). Ảnh: Duyên Anh |
||
Tháng 7-1966, Nhà in thành phố Đà Nẵng chính thức thành lập với đầy đủ máy, chữ. Anh Dương Thiên Hương, anh Châu, anh Cường, anh Đệ và một số anh chị em tạm biệt Nhà in Quảng Đà. Cấp trên cử anh Tú, anh Nguyễn Sỹ Hiền phụ trách. Công việc rất khẩn trương, nào phải xây dựng nhà ở, hầm làm việc, lo dự trữ lương thực, thực phẩm qua mùa mưa và bắt tay vào in tài liệu.
Tháng 9 năm 1966, vào một đêm trăng sáng, khi tất cả anh em đi nhận lương thực tại vùng A, B Đại Lộc, ở căn cứ, máy bay Mỹ thả bom tọa độ rơi vào Nhà in Đà Nẵng. Bom nổ, nhà cửa bị tung tóe, chị Chương cùng tấm sạp bay lên sườn đồi bên trái; tôi cùng chiếc võng văng qua suối, lên sườn đồi bên phải. Trong cơn mê, tôi vẫn nghe tiếng chị Chương kêu cứu… Khi tỉnh dậy, tôi cố bò về văn phòng báo tin, chú Trần Hưng Thừa, anh Hoàng Kim Tùng, anh Phan Duy Nhân (Chính) không tin là sự thật nhưng vẫn cử anh em lên hiện trường. Chị Chương được đưa đến Bệnh xá 76 trong đêm đó, nhờ sự tận tình của các y, bác sĩ, chị Chương được cứu sống, nhưng cháu bé trong bụng thì mãi mãi ở lại nghĩa trang bệnh xá.
May thay, máy in và chữ còn để lại ở Văn phòng TP. Đà Nẵng.
Sau đó, chúng tôi di chuyển đến địa điểm khác. Thời chiến tranh là vậy, khi lộ là chuyển dời ngay, mỗi lần chuyển biết bao gian khổ, tất cả phải xây dựng lại từ đầu, tuy vậy tờ Báo Cờ Giải phóng vẫn in đều hằng tháng và đến tận tay người dân thành phố Đà Nẵng.
Cuối năm 1967, hai nhà in sáp nhập thành Nhà in Báo Quảng Đà, đồng thời chuẩn bị tham gia phục vụ chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân.
Những ngày Tết Mậu Thân, chúng tôi hành quân đến Điện Bàn-Gò Nổi, làng Bảo An. Khi chúng tôi đến, anh em bộ phận xây dựng của Ban Tuyên huấn đã bố trí sẵn nhà ở, hầm làm việc. Các anh đã khiêng những cây cột đình to tướng về làm hầm. Lúc bấy giờ, tất cả cho chiến dịch. Anh Nguyễn Đình An, anh Hồ Hải Học, anh Hồ Duy Lệ và các anh trong Ban Biên tập báo bám sát chiến trường, theo dõi từng trận đánh để viết bài, đưa tin động viên kịp thời các chiến sĩ ngoài mặt trận. Giặc Mỹ biết được cơ quan đầu não đóng ở đây nên chúng đánh phá ác liệt, cày ủi trắng từ Kỳ Lam đến Bến Đường rồi Bảo An, Phi Phú. Chúng tôi trở lại thôn 2 Xuyên Khương (nay là xã Duy Hòa) đóng quân trong vườn ông Trùm Diễn, bà Trùm Tính; nơi đây gần khu dồn A Đông, đồn Gò Am, Kiểm Lâm nên mọi hoạt động phải hết sức bí mật và cảnh giác, nhiều khi phải thực hiện 4 không: "đi không dấu, nấu không khói, nói không to, ho không tiếng". Tuy vậy, giặc Mỹ vẫn đánh hơi được, nửa đêm chúng đổ quân ở dốc Dựng, Nổng Bồ, dốc Bà Son bao vây tiêu diệt Ban Tuyên huấn, Nhà in và các đơn vị khác. Quần nhau với giặc mấy ngày ròng rã rồi chúng tôi mới trở về đến Hòn Tàu. Bao ngày tháng ở đồng bằng, nay quay lại núi rừng cũng ngao ngán, phần giặc Mỹ ra sức càn quét, đánh phá căn cứ, phần lương thực cạn kiệt, phần tất cả anh chị em đều bị thương do bom tọa độ thả ngay vào hang đá trong lúc đang ngủ. Nặng nhất là anh Cường, anh Đệ, chị Hồng, chúng tôi người bị thương nhẹ khiêng người bị thương nặng vào Bệnh xá 78. Do vết thương quá nặng, hai anh đã hy sinh và an nghỉ tại đó; chị Hồng ra viện rồi cũng hy sinh trong vụ Mỹ đánh bom B52 trúng vào hang đá Ban Tuyên huấn đóng tại Hòn Tàu-Duy Xuyên. Anh Châu hy sinh tại hang đá Giao liên gần bãi dân công vùng núi Đại Lộc. Anh Mai, anh Luận hy sinh ở Sơn Phúc và sóng nước Vĩnh Trinh rì rào ru chị Mười yên giấc nghìn thu. Những khó khăn, gian khổ, hy sinh mất mát đó, tưởng chừng như không thể vượt qua nổi, nhưng 2 nhà in vẫn đứng vững, 2 tờ báo vẫn thường xuyên phát hành và tồn tại.
Từ Hòn Tàu qua vùng núi Đại Lộc rồi lần lượt những cánh rừng của Đông Giang, Nam Giang, Tây Giang đều in đậm dấu chân những cán bộ, nhân viên của Đặc khu Quảng Đà, Ban Tuyên huấn và Nhà in.
Đêm 21 rạng sáng 22-5-1972, một đêm đầy đau thương và mất mát. Tại hang đá vùng núi Hòn Tàu, nơi Ban Tuyên huấn đóng quân, tối đó đội chiếu bóng chiếu phim phục vụ hội nghị nổi dậy và các cơ quan trong tỉnh, các đơn vị đến xem rất đông. Chiếu phim nửa chừng thì máy bay trinh sát Mỹ quần lượn mãi trên trời. Ông Trần Văn Đán, thủ trưởng Ban Tuyên huấn lệnh dừng chiếu phim và ai ở cơ quan nào về cơ quan đó. 1 giờ ngày 22-5-1972, máy bay B52 ném bom rải thảm, ngay từ loạt đầu đã rơi trúng khu vực Ban Tuyên huấn, người chết, người bị thương, có những người bị bom ép bay không còn manh vải trên người. Anh Nguyễn Đình An phải lần mò đến cơ quan Thường vụ Tỉnh ủy kêu cứu. Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, các cơ quan cử người đến đưa thương binh vào Bệnh xá 78, chôn cất số anh em đã chết. Hang đá của Thông tấn xã Giải phóng, nơi các anh Hoàng Kim Tùng, Hoàng Quốc Thăng, Nguyễn Bá Tiệp, Nguyễn Vinh và Võ Công Thu ở bị sập. Khi anh em đến ứng cứu thì chỉ thấy một cánh tay đưa ra nhưng không sao lấy được thi thể vì tảng đá quá to. Biến đau thương thành hành động cách mạng, số anh chị em bị thương nhẹ di dời nơi khác và tiếp tục hoạt động cho đến ngày quê hương hoàn toàn giải phóng.
Sau ngày giải phóng, số anh chị em trong Ban Tuyên huấn đã hy sinh lần lượt được đưa hài cốt về an táng tại quê nhà hoặc các nghĩa trang liệt sĩ trong tỉnh. Nhưng 5 anh ấy vẫn còn nằm lại ở hang đá năm xưa, mặc dầu anh em trong Ban Tuyên huấn, Báo Đà Nẵng và gia đình đã nhiều lần tìm kiếm.
Trong cuộc chiến đấu hào hùng ấy, nhiều anh chị em ở Nhà in, Báo Giải phóng, Ban Tuyên huấn Quảng Đà đã ngã xuống, những người còn sống tóc đã ngả màu sương, nhiều người đã nghỉ hưu, có người còn công tác, song tất cả đều gửi một phần thân thể, một phần máu thịt, những năm tháng tuổi thanh xuân của mình để góp phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ.
Thấm thoát đã hơn 40 năm, sự nghiệp cách mạng đã thành công, Tổ quốc được hòa bình, thống nhất, mọi người đoàn tụ cùng gia đình, hưởng cuộc sống hạnh phúc, song trong tâm khảm chúng tôi không bao giờ quên những đồng chí, đồng đội còn nằm lại nơi núi rừng năm xưa.
Phan Minh Lượng