Nhớ đàn chim vàng Anh

Tô Đức Chiêu

Không thể kể hết số công lao động ông bỏ ra để có mảnh vườn xanh tươi đẹp mắt hôm nay. Bà vợ lúc đầu phàn nàn. Chẳng phải bà không muốn cây xanh bóng mát mà quá thương ông. Về nghỉ hưu, cũng có nghĩa già rồi, nếu làm gì đó cũng là cầm chừng cho vui, chứ ai lại quần quật suốt ngày, mùa hè thì nhễ nhại lưng trần phơi nắng, mùa đông thì xùm xụp áo quần như anh nông dân ngày xưa tuổi đang xoan. Nhưng ông bảo mình còn khoẻ, phải biến mảnh đất hoang này thành vườn gọi bóng mát về, rủ bầy chim đến.

Ông quyết chí làm bằng được! Một sĩ quan dù về hưu vẫn mang đủ chất của một người lính. Bà có nhớ không!- Ông nói với vợ - Ngày xưa chỗ này có một rặng tre rất đẹp, trăm cây, ngàn cây, mỗi buổi trưa hè gió thổi nó cốt két kêu lên nghe sao mà sướng tai. Bà không biết chứ, những năm đi xa tôi nhớ tiếng đu đưa của cây cối như thế lắm. Hàng đàn cò về làm tổ. ối chao ôi! Chúng đỗ trắng cả một vùng. Bà vợ lắng nghe. Bà giúp chồng trong công việc. Giờ đây người ta không trồng tre vì mất nhiều diện tích. Vả lại nhu cầu về tre ở xóm thôn cũng không phải như ngày xưa nữa. Ông trồng cây ăn quả, đủ loại, loại ngắn ngày để thu hoạch nhanh như khế, chanh, na, loại dài ngày như nhãn, mít. Khu đất ba ngàn mét vuông này ông đấu thầu của xã, của làng, khi vừa rời khỏi đơn vị trở về. Ông phân bố vị trí các loại cây, có hàng, có lối, đẹp đẽ, quy củ, những ngày cao điểm ông còn nhờ mấy thanh niên làng, lao động công xá đàng hoàng, nhưng cấm làm ẩu, làm liều. Năm đầu mảnh vườn hoang dại. Năm sau đất vỡ ngổn ngang. Năm sau nữa đã có màu xanh tươi mát. Và từ phút ấy, đôi khi ông như người bị hợp hồn. Còn đang ngủ nghe tiếng chim sẻ ríu rít ông lao vội ra sân và reo: 'Chúng về rồi! Chúng về rồi!' Bà vợ cười toe toe khi thấy ông như trẻ lại tới năm mươi tuổi. Chim bay đi, ông lặng lẽ ngắm nhìn như muôn bay theo chúng. Phía vườn xa bên kia ông cũng trồng hai khóm tre, bùn ao hẩu vượt lên, khiến cây xanh tốt và măng ra nhiều. Vô phúc cho đứa nào bẻ một ngọn măng của ông, vô phúc cho đứa nào giơ súng cao su bắn chim chĩa vào tổ sáo trên ngọn khóm tre kia, ông sẽ tóm gáy tôi về tận nhà bố mẹ nó mà đe nẹt đến lần sau phải cạch, phải chừa. Ông lẩm nhẩm mong đợi cò về. Ông nói với chim như nói với người rằng chúng bay kéo nhau về đây, đi, càng nhiều càng tốt, đàn đàn lũ lũ, sẽ được cho ăn và sẽ được an toàn. Dường như đáp lại lòng khát khao của ông, cò đã bay về. Cò trắng. Có tới trăm con. Chúng đỗ trên hai khóm tre rung rinh như đưa võng trước bầu trời lộng gió. Ông gọi bà tới, ông căn dặn bà phải bỏ công việc đó để cảnh giới phía bên vườn, cấm cho đứa nào giở trò bắn phá. Còn ông, lặng lẽ ra cổng, đi vòng về phía bên kia vườn, ông tóm ngay được hai chú bé sắp sửa hành sự. Tang chứng là hai khẩu súng cao su với những túi quần đầy sỏi. Hành vi là những đôi ống chân đang dạng ra lấy thế, trong khi một tay giơ chạc súng phía trước, một tay kéo miếng da bọc viên đạn sỏi về phía sau sẵn sàng phóng đi.

- Chim cò nào của ông!

Những đứa trẻ cãi. Ông già mềm mỏng và kiên quyết. Nhằm phút chúng bất ngờ ông thu gọn hai khẩu súng cao su, kiên quyết không cho chúng giằng lại, nhưng giọng thì vẫn ôn tồn:

- Chim chóc là của trời, nhưng cũng là của làng.

Ông dong được hai đứa trẻ ấy vào sân, không đánh, không mắng, cho trèo cây ăn hoa quả thoả thích, nhưng vũ khí tang vật thì tịch thu.

Đàn cò ấy bay đi. Cũng có hôm chúng bay về nhưng rồi lại bay đi. Chúng chỉ đậu. Đất thơm cò đậu! Như vậy là phúc đức cho nhà ông. Người ta bảo vợ chống ông sướng nhất làng. Thì tôi gì mà không sướng! Con cái trưởng thành đi làm ở thành phố này, thanh phố khác. Lương đại tá về hưu, hai vợ chồng sống ung dung. Những khi con cái về cùng bạn bè của chúng thì ô-tô, xe máy đỗ trên sân, bàn ăn đặt ngoài vườn, gió trời chẳng mất tiền mua, còn gì sướng bằng. Suốt mấy mươi năm lăn lộn hết chiến trường miền Nam tới chiến trường nước bạn, hai lần bị thương, còn giữ được thân hình trở về thế này cũng hạnh phúc lắm rồi. Đôi khi ông bần thần nghĩ tới đồng đội ngã xuống. Có bao chàng trai trẻ thông minh nuôi những ước mơ xa, nhưng rồi đã hiến dâng cả cuộc đời mình. Cũng như ông, hun đúc ước mơ đất đai vườn tược. Bởi nhà ông nghèo. Cha mẹ ông không có đất. Khi ông trở về các bậc sinh thành không còn nữa; và ông cũng không thể xin ruộng vì cả hai vợ chồng ông đều hết tuổi lao động, ông đấu thầu đất để làm vườn, nhân lúc địa phương có chủ trương như vậy. Nhà ngói, cây mít, chẳng riêng là ước mơ của ông mà còn là của cha mẹ ông tới hôm nay mới thành hiện thực. Một bữa ông đi họp Hội cựu chiến binh huyện về, thì bà vợ khoe: 'Chao ôi! Hôm nay không không có nhà, tiếc ơi là tiếc!- Ông ngơ ngác. Bà vợ thêm- Chim vàng anh kéo về một đàn ông ạ. Có tới hàng trăm con. Chúng xài non nửa vườn khế chín vàng. Tôi mang gậy ra đúng lúc chúng tung cánh bay đi'...

- Chết! Thế bà đã vung gậy lên chưa?

Bà ngẩn ngơ! Những tưởng sẽ được biểu dương khen thưởng vì hành động canh giữ vây vườn hoa trái, ai ngờ... Mà sao ông cứ trợn mắt lên thế kia! Mà sao ông cứ ngay đuỗn ra như là mất của thế kia! Tôi đuổi chim để giữ khế thì có tội tình gì?

Ông giẫm chân bành bạch trên sân:

- Tôi hỏi bà đã vung gậy lên chưa?

Bà bực bội trả lời:

- Chưa!

- Thế là phúc rồi! Phúc cho nhà mình rồi! Chúng ăn no rồi bay đi chứ không phải do bà đuổi. Có thể chúng sẽ quay lại và cũng có thể đàn khác sẽ bay về. Bà không thấy là đời người chỉ một lần được nghênh đón đàn chim vàng anh cũng đủ hạnh phúc rồi hay sao! Bà là người sung sướng nhất rồi đấy!

Bà vợ chẳng còn tiếc những quả khế chim đã ăn nữa. Bà đồng cảm với ông, cho dù thâm tâm cho rằng ông hơi thái quá. Mà thế có mời chim xơi quả này còn quả khác, chứ cái bóng vàng rực bầu trời khi đàn chim hiện về thì ngần này tuổi đầu bà mới thấy một lần. Ông nói ngày bé ông cũng đã được chiêm ngưỡng. Lần ấy hàng trăm con chim vàng anh về ăn khế ngọt trong vườn nhà cụ Cự. Lần ấy đi vào tít tắp mù xa rồi, và trong đầu ông hình ảnh chỉ còn láng máng. Nhưng trời có lẽ thương ông, cho nên một buổi sớm trong xanh, ông đang trên sân, bỗng những âm thanh kỳ lạ từ xa vọng lại. ừ ù! ào ào! ẩn hiện. Rồi vùng trời trên đầu nhấp nháy sáng. Rồi vàng rực huy hoàng. Rồi mấy cây khế, mấy cây vối và mấy cây bưởi rung rinh bởi đàn chim vàng anh có tới ngàn con sà xuống đậu. Chúng chuyền cành, nhảy nhót, gọi nhau rồi xúm xít vào những cây khế ngọt. Đôi mắt ông phát sáng. Mặt ông rạng rỡ. Hai cánh mũi giãn nở. Con người vốn điềm đạm ấy bỗng líu tíu:

- Bà nó đâu rồi! Bà nó đâu rồi!

Từ trong nhà tiếng bà vợ ngạc nhiên và ú ớ vọng ra. Ông hối thúc:

- Mau lên! Mau lên! Mình vàng. Mỏ đỏ. Chân đen. Đời người một lần được thấy đã lên diễm phúc, mà bà thì lần náy là thứ hai...

Đàn chim ríu tít với những quả khế ngọt vàng trắng. Không được! Ông ngăn lại bà vợ vừa xô ra tới cửa. Đừng làm động đàn chim đang say sưa ngự thiện. Nhẽ thường tới nửa tiếng đồng hồ. Đàn chim vàng anh no nê, rúi rít cảm ơn gia chủ, rồi tung mình, kết thành đàn, lượn một vòng như rắc vàng rắc bạc trên bầu trời, rồi mới bay về phương nam, để lại vùng ảo ảnh huy hoàng không bao giờ tàn phai trong trí nhớ.

Ông và bà đứng lặng nhìn theo như bị hút hồn!...