Nhớ bài “Cứ địa lòng dân”

Tôi đang ngồi trên võng trong hang đá ở lưng núi Hòn Tàu (Trụ sở làm việc của Ban Tuyên huấn Đặc khu Quảng Đà khi ấy - 1971) thì được anh Hồ Hải Học - người phụ trách trực tiếp Báo, từ hang đá phía trên gọi xuống: "Cậu lên chỗ anh Năm ngay, anh An sẽ đón. Biết đường rồi chứ? Cứ đến hòn đá Giao vận sẽ có người dẫn tiếp".

Tôi đang ngồi trên võng trong hang đá ở lưng núi Hòn Tàu (Trụ sở làm việc của Ban Tuyên huấn Đặc khu Quảng Đà khi ấy - 1971) thì được anh Hồ Hải Học - người phụ trách trực tiếp Báo, từ hang đá phía trên gọi xuống: "Cậu lên chỗ anh Năm ngay, anh An sẽ đón. Biết đường rồi chứ? Cứ đến hòn đá Giao vận sẽ có người dẫn tiếp".

Các cán bộ, phóng viên Báo Giải phóng và Ban Tuyên huấn Quảng Đà trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở căn cứ Hòn Tàu tháng 3-1971. Hàng trước (từ trái sang): Các đồng chí Hoàng Kim Tùng, Vũ Thành Lê, Lê Đình Nghi, Phạm Chỉnh. Hàng sau (từ trái sang): Các đồng chí Dương Đức Quảng (phóng viên Thông tấn xã Giải phóng), Nguyễn Cộng Hòa, Hồ Duy Lệ... 

Đúng hẹn tôi đến phiến đá gọi là Ban Giao vận ấy đã thấy một cô gái, miệng ngậm điếu thuốc rê to như ngón tay, mặc áo katê màu xanh, quần nilon bó sát, vai mang khẩu AK báng gấp đứng chờ. "Anh Ba hả?" - cô hỏi, theo tui (theo tôi).

Nói xong cô quay gót bước đi thoăn thoắt. Theo con suối cạn, cô đưa tôi ngược lên khoảng hơn một giờ. Anh An (Nguyễn Đình An) - người phụ trách chung cả khối công tác tuyên truyền - báo chí của Ban Tuyên huấn, đang đợi ra chiều sốt ruột. Thấy tôi, anh đưa ngay vào cái lán nhỏ vừa là hầm vừa là nhà; trong đó có khoảng vài chục người mà tôi chưa hề biết mặt. Người chủ trì cuộc họp là một ông tuổi trung niên, người thấp đậm đang nói, mà sau này tôi mới biết đó là ông Trần Bắc - Trần Hưng Thừa, Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà. Sau khi truyền đạt tình hình, nhiệm vụ, ông nhấn mạnh: Những vùng sâu, vùng xa như Hội An, Đông Duy Xuyên, vùng cát Điện Bàn, Hòa Vang… địch đang điên cuồng đánh phá, gom dân, chiếm đất. Tỉnh cử các đồng chí xuống tăng cường cùng cơ sở; đây là những địa bàn trọng điểm, không chỉ phải giữ vững mà còn phát triển mở rộng…

Vậy là tôi được cử đi Hội An. Tuy nhiệm vụ chính là làm báo nhưng những phóng viên như tôi, anh Vũ Thành Lê, Hồ Duy Lệ, Trương Ngọc Phương… thời đó phải làm đủ việc. Nào là kiếm củi, hái rau rừng; đi lấy gạo, muối ở vùng địch; nào là đi phát rẫy trồng sắn, tỉa bắp, chăn heo… trên vùng núi cao Thạnh Mỹ; trước hết là để duy trì cuộc sống. Thường trong tháng chúng tôi cũng đi xuống địa bàn vùng có dân để cùng anh em cơ sở phát động quần chúng, kết hợp viết tin, bài. Có khi trực tiếp cùng du kích đánh địch, chống lấn chiếm. Đi Hội An lần này, chúng tôi cũng làm những công việc ấy. Trong số những người đi Hội An lần này có cán bộ binh vận, phụ vận và cả an ninh, quân đội; nhưng không đi cùng lúc.

Ngay chiều hôm sau tôi đã xuống trạm giao liên phía bên kia Hòn Tàu để nhập đoàn vượt quốc lộ số 1. Nghe mấy anh đã đi vùng Đông Duy Xuyên nói đây là chặng đường rất khó khăn vì phải qua quốc lộ lại luôn có một toán phục kích do một tên chiêu hồi cầm đầu nên nó quỷ quyệt lắm. Người dẫn đường hôm ấy là một nam thanh niên trông rất nhanh nhẹn, dặn: "Mọi người phải bám nhau chặt, không hút thuốc, không nói chuyện. Nếu gặp địch phục kích thì cứ bình tĩnh lùi lại. Nếu chúng chỉ bắn pháo cối cầm canh thì không có chuyện chi, cứ đi". Vừa nói anh vừa đeo dây thắt lưng, trên đó giắt đầy lựu đạn và mấy băng đạn AK; mặc quần xà lỏn và xách khẩu AK đi liền. Chúng tôi theo anh như một cái máy. Ngoài trời tối đen như mực; tuy chỉ cách nhau vài ba mét mà người đi sau nhìn không rõ người đi trước. Nhưng như vậy là thuận lợi, vì gặp những đêm trăng sáng thì không thể vượt đường được. Đúng như người dẫn đường đã nói, bọn địch chỉ bắn pháo cầm canh, việc vượt đường không vướng các ổ phục kích. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không thể kịp thời gian để vượt sông sang Hội An mà phải nằm lại chờ đêm sau. Xã vùng cát Xuyên Nghĩa do bị nhiều lần cày ủi, mùa hè không cây cối nên càng nóng rang như chảo lửa. Một ngày đợi sang sông trong tư thế chống càn căng thẳng, thiếu ngủ mệt rã rời rồi cuối cùng cũng qua. Cũng như lần trước, người giao liên lần này vừa đưa chúng tôi lên ghe vừa nhắc những điều có thể bất trắc. Cửa Đại mùa này chưa phải mùa nước lũ nhưng vẫn mênh mang không dễ vượt. Đã thế tàu của hải đội địch cứ thỉnh thoảng lại chạy lên, chạy xuống, đèn pha sáng choang. Mỗi ghe chỉ chở được tối đa 5 người; để sang nhanh mỗi người còn được phát bai chèo phụ. Sau mấy giờ vật lộn với dòng nước xiết, cuối cùng chúng tôi cũng đặt chân lên được vùng dừa nước Cẩm Thanh - cứ địa của Thị ủy Hội An bấy giờ. Vì đến muộn lại lần đầu đến địa bàn nên anh em để tôi ở ngay trong phòng Giao vận. Trời chưa sáng rõ đã được ăn cơm và triển khai đi chống càn ngay. Anh Năm - người đi kèm tôi, đã luống tuổi nên xưng "Qua", gọi tôi là "em" rất thân mật. Anh dẫn đi loằng ngoằng, lội bì bõm qua mấy bãi dừa nước rồi chỉ cho tôi một mô đất thấp và treo cái gùi vào một tàu dừa nước đã bị chặt gần sát cây. "Ngồi tại chỗ, không đi lại nghe em; qua đi có việc, lát quay lại". Anh nói và thoắt cái đã lội khuất vào bãi dừa đang ngập dần trong con nước lên. Thực lòng tôi cũng lo lắng, khi một mình giữa vùng sông nước. "Qua đi gài lại hệ thống mìn" - anh bất ngờ xuất hiện, giải thích. Sau này tôi mới biết mỗi người đi chống càn phải đảm nhiệm một hướng tấn công. Vòng ngoài là mìn chống tăng, mìn sát thương, vòng hai là lựu đạn và công sự chiến đấu; cuối cùng mới là hầm bí mật. Do được bố trí dày đặc mìn bẫy như thế nên bọn lính ngụy không dám liều lĩnh xông vào. Tuy vùng lõm chỉ cách đồn Cửa Đại khoảng cây số đường chim bay nhưng chúng chưa bao giờ chiếm được. Nhưng nếu nói mật độ bắn pháo thì vùng lõm này phải đứng hàng đầu. Cách đây mấy năm, cũng đã có lần chúng dùng cả xe tăng, bộ binh, hải thuyền bắn yểm trợ càn vào; nhưng kết quả là 4 xác xe tăng, 3 tàu chiến nằm lại cùng hàng chục xác lính ngụy do vướng mìn các loại.

Lê Đình Nghi, sinh năm 1947. Quê quán: Xã Hoằng Xuân, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Trú quán: Số 18/ 183/38 phố Hoàng Văn Thái, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

Tốt nghiệp Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1970.

Phóng viên Báo Giải phóng Quảng Đà từ năm 1971 đến năm 1975, Báo Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm 1975 đến 1978.

Công việc những ngày sau đó ở vùng cứ địa Cẩm Thanh của chúng tôi cũng diễn ra như kế hoạch: Sáng sớm đi chống càn; ngoài 4 giờ chiều và về đêm mới làm việc là chủ yếu. Nhưng ngày hai buổi chống chọi với con nước lên xuống ở vùng cửa biển này thì thật là vất vả. Khi con nước lên thì toàn vùng mênh mang; anh em đi lại thường là phải lội. Bởi thế nam giới suốt ngày mặc quần cọc; chỉ thương mấy chị, mấy cô dầm nước suốt ngày. Nhưng khi con nước ròng thì hoàn toàn khác hẳn. Các anh chị ở từ đâu đó qua lại tất bật; có khi là việc chuẩn bị đi phát động quần chúng trong đêm, khi là hội họp, chuẩn bị đi tập kích đánh đồn. Nhưng vui nhất là sau khi nước rút, các loại cá, tôm, cua đọng lại trong các vũng nhiều vô kể. Có lần, mấy anh trong Ban Tuyên huấn huyện dẫn tôi cùng ra một vũng nước lớn, có một xác tàu địch bị bắn chìm để đánh cá. Các anh thì hai tay hai nơm úp lia lịa, tôi cũng dùng một cái; cá tôm bắt được nhét đầy cả bao lác lớn. Nhờ thế mà thực phẩm tươi sống ở đây đủ dùng. Có hôm chúng tôi còn được thưởng thức cả món mì Quảng nhân cua, bánh ướt cuốn tôm luộc, hành tươi nhúng ăn cùng rau thơm Trà Quế.

Nhưng ấn tượng nhất vẫn là những đêm đi vào dân phát động. Thường thì trời vừa xẩm tối, chúng tôi đã lên đường nhưng vào được dân thì sớm nhất cũng phải hơn 11 giờ đêm. Tôi nhớ có hôm nằm ngoài nổng cát gần hết đêm mà cuối cùng phải rút vì không thể vượt qua chốt địch. Nhưng những đêm đã vào được với dân thì vô cùng lý thú. Dân xoắn xuýt hỏi tình hình, chia sẻ tình cảm như người thân lâu ngày gặp lại. Cán bộ thì mỗi người một việc theo nhiệm vụ của mình: nói chuyện thời sự trong tỉnh, trong miền; nắm tình hình địch, binh vận, xây dựng cơ sở… Và, bao giờ cũng có vài tiết mục văn nghệ ca bài chòi nên dân đến đông vui. Có hôm đi phát động dân ở xã Cẩm Phô, đã 3 giờ sáng mà anh Chắt - người đi cùng đoàn chưa trở lại làm mọi người lo lắng; hóa ra anh tranh thủ về thăm vợ đẻ; vợ bắt mang theo một gùi gạo nặng. Những chuyện tiếp tế cho căn cứ kiểu như thế diễn ra gần như thường nhật, bởi đa số anh em là người địa phương. Khi tiếp tế, bà con giả làm người đánh cá đi lại trên sông, dựa thời cơ mà theo lạch nước rẽ vào. Hàng tiếp tế là gạo muối, các nhu yếu phẩm; có khi kết hợp cung cấp tình hình nên trận càn nào của địch vào cứ địa Cẩm Thanh cũng đều được biết trước. Chị Năm Lý người xã Cẩm Kim, từ Sài Gòn ra thăm và ở với chồng cả tuần cũng đi theo con đường đó. Việc ra vào vùng cứ địa Cẩm Thanh với dân thường, với cơ sở cách mạng hoàn toàn dễ dàng. Nhưng với bọn ngụy thì đây là mồ chôn, là cửa tử. Bất giác trong tôi ý tứ bài viết về một cứ địa vùng sâu hình thành. Cứ địa ấy không chỉ là một vùng lõm trong rừng dừa nước Cẩm Thanh mà là lòng dân cả trong vùng địch hậu. Cứ địa của niềm tin cách mạng, niềm tin chiến thắng.

LÊ ĐÌNH NGHI
(Nguyên phóng viên Báo Giải phóng Quảng Đà)