Người thủy thủ phản chiến trên biển Hắc Hải
Nhận xét về Bác Tôn, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là một con người rất ưu tú của đất nước, là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, suốt đời cần kiệm liêm chính, hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân…”
Sự kiện Hắc Hải
Sinh ra ở xã Mỹ Hoà Hưng, tỉnh Long Xuyên (nay là thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang), bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đời Tôn Đức Thắng là quyết định lên Sài Gòn, chọn con đường làm thợ. Anh thanh niên Tôn Đức Thắng hòa mình vào cuộc sống của giai cấp công nhân và bước đầu có được những kinh nghiệm trong việc vận động và tập hợp công nhân đấu tranh.
Năm 1916, để tránh sự theo dõi của thực dân, anh sang Pháp và bị động viên trở thành lính thợ làm việc trên chiến hạm
Tên Tôn Đức Thắng hai lần được đặt cho đường phố ở thành phố Ô-đét-xa, một lần vào năm 1957 (về sau con phố này được đổi tên vào thập niên 1990); lần thứ hai năm 2004 cho một phố dài 700m gần bờ biển ở quận Kiép, một quận lớn ở Ô-đét-xa.
Người chiến sĩ cách mạng kiên cường
Sau cuộc phản chiến Hắc Hải, Tôn Đức Thắng bị buộc ra khỏi hải quân Pháp. Anh vào làm cho hãng ô tô Renault, gia nhập tổ cức công đoàn Pháp và cùng với giai cấp công nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản Pháp. Năm 1920, trở về Sài Gòn, với những kinh nghiệm hoạt động trong phong trào công nhân và công đoàn ở Pháp, Tôn Đức Thắng bí mật tổ chức Công hội ở nhiều cơ sở ở Nam Bộ. Đến năm 1925, hơn 300 công nhân đã trở thành hội viên Công hội bí mật do Tôn Đức Thắng làm Hội trưởng. Công hội đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh, tiêu biểu nhất là cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son (8-1925) thắng lợi. Sự kiện này được Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 6 (1928) đánh giá cao.
Bước ngoặt lơn nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Đức Thắng mở ra vào một ngày cuối năm 1926, khi nhận được chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, anh gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1927), tán thành con đường cứu nước, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thực tế, ngay những ngày làm thợ trên đất Pháp, Tôn Đức Thắng biết đến một người Việt Nam đã sang Pháp nổi danh với những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc, nói hộ những ước vọng tự đáy lòng anh và nỗi khát khao được gặp Nguyễn Ái Quốc bắt đầu từ đấy. Sau này, trở về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng là một đầu mối phát tán báo Người cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc chủ trương và coi "Bản án chế độ thực dân Pháp" do Nguyễn Ái Quốc viết là bảo bối tuyên truyền giác ngộ công nhân, xây dựng tổ chức công đoàn.
Là một thành viên trong ban lãnh đạo Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kỳ (thành lập năm 1927), Tôn Đức Thắng tích cực tuyên truyền vận động và cùng các đồng chí có những đóng góp quan trọng trong quá trình việc chuẩn bị cho sự ra đời của một đảng mác-xít chân chính ở Việt Nam.
Cuối năm 1929, bị đế quốc Pháp bắt ở Sài Gòn, với án tù 20 năm khổ sai, Tôn Đức Thắng bị đày ra Côn Đảo. Bằng những kinh nghiệm đã có trong tổ chức Công hội bí mật ở Sài Gòn, Tôn Đức Thắng bàn với những người cộng sản thành lập “Hội những người tù đỏ” làm hạt nhân lãnh đạo, tập hợp tù nhân, tạo sức mạnh đoàn kết chống lại chế độ lao tù. Tôn Đức Thắng là một trong số những người sáng lập chi bộ đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo và giữ vao trò lãnh đạo quan trọng cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Bác Tôn được Bác Hồ và Chính phủ đón ra miền Bắc, giữ nhiều vị trí chủ chốt trong Chính phủ. Năm 1969, khi Bác Hồ mất, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi Bắc
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Tôn là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng. Bác Tôn là hiện thân của những đức tính mà Bác Hồ đòi hỏi ở mỗi người cộng sản: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị, mình vì mọi người. Là Chủ tịch nước, có gia đình riêng, nhưng không bao giờ Bác Tôn cho phép con cháu lợi dụng danh nghĩa và uy tín của Bác làm những việc vụ lợi cá nhân. Trong thời kỳ bao cấp, Bác có sổ mua hàng loại đặc biệt, nhưng không cho con cháu sử dụng. Bác nói các con đã có tiêu chuẩn nhà nước cấp rồi. Bác Tôn được trao giải thưởng Lê-nin “Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc” của Ủy ban Giải thưởng Hòa bình quốc tế Lê-nin (1955), đồng thời là người đầu tiên vinh dự được nhận Huân chương Sao Vàng – huân chương cao quý nhất của Nhà nước do đích thân Bác Hồ trao tặng (1958).
Vũ Mai tổng hợp