Nhưng rồi cách đây gần 30 năm trước, bờ xe nước đã bị thay thế bằng những công trình thủy lợi hiện đại hơn. Dù vậy, biểu tượng độc đáo của người dân xứ Quảng vẫn được ông Mai Văn Quýt (73 tuổi, ngụ thôn Thống Nhất, xã Tịnh Ấn Tây, phường Trương Quang Trọng, TP Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) cần mẫn tái hiện và được trưng bày ở nhiều nơi.
Biểu tượng một thời của tỉnh Quảng Ngãi
Cuốn Địa dư xứ Đông Dương cho biết: “Xe nước (hình như) du nhập từ Trung Quốc, theo đường bộ vào miền Bắc theo đường biển vào miền Trung. Xe nước xuất hiện ở Quảng Ngãi khoảng giữa thế kỷ XVIII; đến Quảng Nam và Bình Định đầu thế kỷ XX. Một số tỉnh khác không có xe nước”.
Mô tả cấu tạo và cơ chế vận hành mỗi bờ xe nước (mà người Quảng Ngãi nào cũng biết) tác giả lưu ý: “Mỗi bờ xe nước là sở hữu của một nhóm “bảo cử”. Bảo cử bỏ vốn mua sắm vật liệu, dựng và bảo trì bờ xe và được trả công từ 1/3 – 2/3 sản lượng lúa thu hoạch trên mỗi diện tích sử dụng nước xe”.
Theo ông Cao Văn Chư - Phó Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi, người đã có một thời gian dài cất công tìm hiểu về lai lịch của guồng xe nước ở tác giả Quảng Ngãi, tác giả P.Guillenmiet trong công trình “Một ngành công nghiệp An Nam: Các guồng xe nước ở Quảng Ngãi” (năm 1926) cho rằng, các xe nước xuất hiện sớm nhất ở Quảng Ngãi là ở sông Vệ vào năm 1740, cụ thể là xe nước ở làng Bồ Đề (nay thuộc xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi). Người đầu tiên đem guồng xe nước đến Quảng Ngãi là một người phụ nữ tên Diệm.
Ông Quýt dựng lại hình ảnh bờ xe nước một thời ở sông Trà |
Một nguồn tư liệu khác (“Quảng Nghĩa tỉnh chí”) cho rằng, guồng xe nước có ở Quảng Ngãi vào thế kỷ XVIII dưới thời Tây Sơn, người sáng chế ra các guồng xe nước nổi tiếng là một người đàn ông tên Thêm, người làng Bồ Đề, phủ Mộ Đức. Vào năm 1790, ông Thêm đã có một bờ xe nước trên sông Vệ.
Theo ông Chư, bà Diệm và ông Thêm chắc chắn là hai người khác nhau. Có thể bà Diệm mới là người đưa xe nước về Quảng Ngãi, còn ông Thêm là con cháu của bà Diệm.
“Sau khi bà Diệm mất, người ta xây một cái miếu thờ nhỏ để thờ bà ở làng Bồ Đề. Cho đến trước cách mạng tháng 8/1945, người dân ở 6 xã sử dụng nguồn nước từ guồng xe của bà Diệm vẫn giữ lệ giỗ bà. Họ khiêng heo đến cúng ở miếu thờ như một sự hàm ơn, cầu mong bà phù hộ”, ông Chư cho biết.
Từ những nguồn tư liệu về guồng xe nước ở Quảng Ngãi, guồng xe nước đầu tiên được lắp đặt trên sông Vệ, sau đó lan rộng ra sông Trà và tồn tại hàng trăm năm sau đó.
“Ở Quảng Ngãi, xe nước là giải pháp thủy lợi đặc biệt quan trọng. Trên sông Trà và sông Vệ từng có không dưới 114 bờ xe nước... Đầu mùa hè đến giữa mùa thu bờ xe nước vận hành. Nước sông dâng lên 40 - 50cm, chảy vào các kênh mương hai bên bờ, rồi tự chảy hoặc bằng gầu sòng, gầu giai, xe lùa đến hàng ngàn mẫu ruộng mùa hè khát nước”, trích sách “Quảng Ngãi tỉnh chí” của tác giả Nguyễn Bá Trác.
Theo ông Chư, bờ xe nước là biểu tượng của tỉnh Quảng Ngãi khi xưa, thể hiện sức sáng tạo vô hạn của cộng đồng dân cư gắn liền với nông nghiệp. Từ Bắc vào Nam đều có guồng xe nước, nhưng khi nhắc đến nó người ta nghĩ ngay đến Quảng Ngãi,bởi nơi đây có số lượng công trình nhiều, quy mô lớn tập trung ở sông Vệ và sông Trà.
“Điểm khác biệt nữa là ở số bánh xe, nếu ngoài Bắc chỉ có một thì trong này có đến 10 - 12 bánh. Kiến trúc này được đánh giá rất cao và được một công sứ người Pháp nghiên cứu, làm hẳn một chuyên đề về nó nên người Quảng Ngãi rất tự hào.
Gần 30 năm qua, không còn hình ảnh bờ xe nước trên các con sông ở tỉnh Quảng Ngãi, nhưng ngay bên dòng sông Trà vẫn còn đó ông Mai Văn Quýt ngày ngày miệt mài dựng lại hình ảnh bờ xe nước. Ông đã góp phần không nhỏ vào công cuộc bảo tồn tinh hoa văn hóa truyền thống”, ông Chư cho biết.
Níu giữ hồn xưa
Chúng tôi tìm đến nhà ông Quýt đúng lúc ông đang tái hiện lại mô hình những bánh xe nước - dấu tích xưa bên dòng sông Trà. Ông bảo, thông qua hình ảnh bánh xe nước được ông làm làm bằng chất liệu tre, nan quê nhà, có thể truyền lửa đến thế hệ con, cháu về sự cần cù, vượt qua gian khó của cha ông thuở trước. Họ đã chế ngự được thiên nhiên khắc nghiệt để sản xuất trồng trọt, mưu sinh trên mảnh đất quê hương.
Theo ông Quýt, để làm được bờ xe nước khoảng 10 - 12 bánh, thuở xưa thế hệ ông cha cùng nhiều người thợ trong làng phải tốn nhiều công sức tìm đốn tre già, gọt mắt, cắt khúc rồi mang đi ngâm dưới nước suốt 6 tháng. Sau đó, tre được vớt lên phơi khô, rồi chẻ nhỏ làm theo hàng ngàn chi tiết tùy loại. Làm bờ xe chất liệu chủ yếu bằng tre, sau đó dùng các loại dây rừng để buộc néo các bánh xe lại với nhau tạo guồng quay cho đồng bộ để đưa nước từ sông lên đồng.
“Mỗi bờ có khoảng 10 - 12 bánh xe nước; tính từ mặt nước lên bờ thì cao 12m, dài 20m được làm từ hàng ngàn cây tre già cùng nhiều loại dây rừng. Tháng 2 hàng năm bờ xe bắt đầu đưa nước từ sông lên bờ, đến tháng 9 thì tháo dỡ để vừa tu sửa vừa tránh bị lũ cuốn trôi”, ông Quýt cho biết.
Bờ xe nước trên sông Trà (ảnh tư liệu) |
Ông Quýt bảo, việc xây dựng bờ xe không khó, mà cái khó nhất là chọn được địa điểm và xây dựng bờ cừ. Bờ cừ phải xây theo hình chữ V, làm sao nước được dẫn dồn về một chỗ hẹp để tạo dòng chảy mạnh. Ngay tại điểm nước chảy mạnh sẽ đặt bờ xe.
Xung quanh mỗi bánh xe được buộc hàng trăm ống tre, đặt nghiêng một góc, sao cho khi bánh xe quay xuống nước, các ống tre này đong đầy nước. Lực chảy của nước do việc đắp bờ cừ sẽ đẩy bánh xe tiếp tục quay tròn, đưa ống nước lên cao và trút ra máng, dẫn nước về đồng.
“Đó là thực tế bờ xe nước xưa kia, còn bây giờ tôi làm những mô hình bờ xe thu nhỏ, đường kính từ 2 - 4m. Mỗi bờ xe có từ 2 - 4 bánh, tùy theo khách họ đặt về trưng bày ở đâu. Hồi xưa, các vật liệu chưa có nên phần lớn bờ xe được buộc bằng dây rừng, còn tôi làm mô hình thì làm bằng dây kẽm, dây đồng, cước để kết các chi tiết bằng tre của bánh xe nước lại với nhau, rồi phủ thêm lớp sơn màu bạc bên ngoài nhằm tăng tuổi thọ. Công đoạn khó nhất khi làm một bánh xe nước là làm bánh cho cân bằng để khi vận hành không bị lỗi, quay vòng trơn tru”, ông Quýt cho biết.
Đối tượng mà ông Quýt hướng đến khi làm mô hình bờ xe nước thu nhỏ này là các nhà hàng, khách sạn, quán cà phê… vì những nơi này thường cần những thứ độc, lạ để trang trí. “Tôi làm cái nhỏ nhất (2 bánh) cũng mất gần nửa tháng mới xong. Vậy nên có người mua thì có thu nhập, mà không có người mua thì để ngắm cũng vui”, ông Quýt cho biết.