Người khuyết tật và ước mơ giản dị

Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày Quốc tế về người khuyết tật và diễn đàn với chủ đề “Lắng nghe tiếng nói của người khuyết tật” tháng 12/2022.
Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày Quốc tế về người khuyết tật và diễn đàn với chủ đề “Lắng nghe tiếng nói của người khuyết tật” tháng 12/2022.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -  Theo Hội bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam thì người khuyết tật hiện vẫn gặp khó trong việc tiếp cận dụng cụ hỗ trợ dù rằng đó là điều kiện giúp người khuyết tật có cơ hội tham gia lao động sản xuất để nuôi sống bản thân và góp phần vào sự phát triển của xã hội, cải thiện được sức khỏe và giảm được bệnh tật.

Dụng cụ trợ giúp vẫn còn xa với số đông người khuyết tật

Việt Nam hiện có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật (NKT), chiếm 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên; trong đó có 58% là nữ, 28,3% là trẻ em, gần 29% là NKT nặng và đặc biệt nặng. Theo kết quả Điều tra Quốc gia về NKT, khi không sử dụng dụng cụ trợ giúp, có 15,14% NKT gặp khó khăn khi đi bộ. Khi sử dụng dụng cụ trợ giúp, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 1,94%. Có thể thấy, việc duy trì tốt việc cung cấp dụng cụ trợ giúp cho NKT có thể tạo ra sự khác biệt lớn cho họ về khả năng tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội.

Tháng 8/2019 tại hội thảo “Chính sách BHYT đối với NKT – Thực trạng và định hướng sửa đổi, bổ sung”, các quan điểm được nêu ra cho thấy, hiện tồn tại các khó khăn bất cập trong cung cấp dụng cụ trợ giúp cho NKT do các dụng cụ này chưa được BHYT chi trả dù rằng dụng cụ trợ giúp sẽ tạo điều kiện cho NKT có cơ hội tham gia lao động sản xuất để nuôi sống bản thân và góp phần vào sự phát triển của xã hội, cải thiện được sức khỏe và giảm được bệnh tật. Dụng cụ trợ giúp vẫn còn xa với số đông NKT do chi phí quá lớn so với khả năng chi trả của họ. Hơn nữa, dịch vụ cung cấp dụng cụ trợ giúp cho NKT cũng chưa được phát triển rộng rãi với nhiều mô hình tiện ích để NKT có thể tiếp cận, chưa đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu của NKT.

Hiện nay chưa có một điều tra đủ lớn để khẳng định chính xác nhu cầu về các dụng cụ trợ giúp của NKT. Tuy nhiên, qua phản ánh từ nhiều kênh thông tin đã công bố từ nhiều cơ quan, tổ chức về tâm tư nguyện vọng họ và gia đình cho thấy nhu cầu sử dụng các dụng cụ hỗ trợ đối với đối tượng là rất lớn đặc biệt đối với dạng khuyết tật vận động, khiếm thính, khiếm thị…

Mới đây, Liên Hiệp hội về NKT Việt Nam đã tiến hành khảo sát qui mô nhỏ về thực trạng sử dụng và nhu cầu đối với dụng cụ trợ giúp của NKT. Khảo sát dựa trên tài liệu hướng dẫn đánh giá nhanh về nhu cầu Công nghệ trợ giúp (rATA) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tập trung làm rõ những vấn đề lớn liên quan đến dụng cụ trợ giúp đối với NKT.

Theo đó, về khả năng tiếp cận và chi trả, khảo sát được thực hiện trên những NKT sử dụng các loại dụng cụ trợ giúp như: 11 người sử dụng cặp nặng Inox, 8 người sử dụng xe lắc, 12 người sử dụng chân giả và xe lắc, 1 người sử dụng xe ba bánh, 2 người sử dụng giày nẹp và 1 người sử dụng gậy dò đường. Các dụng cụ trợ giúp này được NKT sử dụng hằng ngày, điều đó chứng tỏ nhu cầu sử dụng dụng cụ trợ giúp của NKT rất lớn. Bên cạnh đó NKT phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe cá nhân và nhu cầu để lựa chọn dụng cụ phù hợp nhất, giúp đảm bảo sinh hoạt trong đời sống hằng ngày, tham gia các hoạt động xã hội và lao động kiếm sống.

Khảo sát cũng cho thấy, trong khi nhu cầu của NKT đối với việc sử dụng dụng cụ trợ giúp là rất lớn mà NKT lại không có khả năng chi trả lên tới 97,8% và 2,2% còn lại chỉ có thể chi trả một phần để mua dụng cụ trợ giúp. Hầu hết các dụng cụ trợ giúp mà NKT đang sử dụng đều có được từ việc cho, tặng, nhưng có tới trên 81% là từ các tổ chức phi chính phủ, từ thiện; trên 6% do bạn bè, người thân tặng; tự chi trả chưa đến 5% và từ ngân sách nhà nước chưa đến 7%.

NKT cũng rất khó khăn trong việc có thể tiếp cận dụng cụ trợ giúp do các sản phẩm cũng không sẵn có tại địa phương. Với suy nghĩ rằng không đủ tiền để mua dụng cụ trợ giúp, NKT vốn đã ít biết đến các sản phẩm và các thông tin liên quan đến dụng cụ trợ giúp thì lại càng không tìm hiểu. Ngay cả đối với hai trường hợp mua và tự làm đều khẳng định không thể chi trả và nếu có cũng chỉ là chi trả một phần.

Về tác động tính hiệu quả, 100% NKT khảo sát đều cho rằng sức khỏe của bản thân tốt lên từ khi có dụng cụ trợ giúp, tình trạng tật được cải thiện do có thể hoạt động, vận động và tham gia nhiều hơn. NKT không những chỉ phục vụ bản thân mà còn tham gia được vào các hoạt động xã hội, gặp gỡ bạn bè, mở rộng giao lưu mà còn có thể lao động kiếm sống, góp phần đảm bảo kinh tế cho bản thân, hỗ trợ cho gia đình. Trong đó, 38 ý kiến cho rằng nếu không có dụng cụ trợ giúp thì rất khó khăn cho việc đi lại, sinh hoạt hằng ngày cũng như cải thiện đời sống và 7 NKT không có ý kiến nào khác về vấn đề này.

Về mong muốn, đề xuất, 100% NKT khảo sát đều cho rằng BHYT nên chi trả và chi trả toàn bộ đối với dụng cụ trợ giúp đối với NKT. Hầu hết các lý do đưa ra đều cho rằng bản thân khó khăn, không thể chi trả đối với dụng cụ trợ giúp.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Cần khảo sát toàn diện nhu cầu sử dụng dụng cụ trợ giúp đối với NKT

Ngày 3/12 vừa qua nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế người khuyết tật, trao đổi với truyền thông, Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp Hội về người khuyết tật Việt Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp của thương binh và người khuyết tật Việt Nam ông Đặng Văn Thanh đã cho biết, thời gian qua, các cơ quan chức năng đã nghiên cứu trình Quốc hội ban hành Luật Người khuyết tật và đưa các nội dung liên quan vào các luật chuyên ngành, như: Bộ luật Lao động, Luật Việc làm...

Việt Nam cũng đã tham gia Công ước của Liên Hợp quốc về quyền của người khuyết tật. Năm 2019, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 39/CT-TƯ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật. Trên cơ sở đó, việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về người khuyết tật những năm qua đã tạo ra những chuyển biến tích cực đối với cuộc sống của người khuyết tật. Hoạt động trợ giúp người khuyết tật đã thu hút sự quan tâm, phát huy trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng và quyền của người khuyết tật cũng ngày càng được bảo đảm tốt hơn…

Theo ông Đặng Văn Thanh hiện tại, vẫn còn nhiều người khuyết tật thuộc hộ nghèo, chưa được tiếp cận hoặc tiếp cận chưa đầy đủ các chính sách ưu đãi của Nhà nước về y tế, giáo dục, dạy nghề, việc làm... Việc tiếp cận giao thông, đi lại vẫn là rào cản lớn nhất hiện nay, nhất là ở những vùng khó khăn, vùng nông thôn; các công trình xây dựng trước đây không được quan tâm cải tạo bảo đảm tiếp cận cho người khuyết tật. Người khuyết tật cũng khó tiếp cận các hoạt động văn hóa, giải trí, thể dục, thể thao ở cơ sở. Hơn nữa, mức trợ cấp xã hội cho người khuyết tật còn thấp. Cơ sở vật chất tại các cơ sở trợ giúp người khuyết tật còn thiếu thốn, nhất là trang thiết bị y tế phục hồi chức năng, dịch vụ trị liệu tâm lý…

Có thể thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế trên chính là việc hiện tồn tại các khó khăn bất cập trong cung cấp dụng cụ trợ giúp cho NKT, khiến dụng cụ trợ giúp vẫn còn xa với số đông NKT.

Được biết, qua cuộc khảo sát trên, Liên hiệp hội về NKT Việt Nam đã đề xuất một số khuyến nghị như: cần có cuộc khảo sát toàn diện với qui mô rộng hơn cũng như có những nghiên cứu, đánh giá về thực trạng và nhu cầu sử dụng dụng cụ trợ giúp đối với NKT. Nghiên cứu, đánh giá vai trò và tác động của dụng cụ trợ giúp đối với NKT trên cơ sở đó từng bước mở rộng danh mục dụng cụ trợ giúp được BHYT chi trả. Nghiên cứu các mô hình cung cấp dịch vụ dụng cụ trợ giúp đối với NKT như xã hội hóa bên cạnh nguồn lực nhà nước; dịch vụ cho thuê dụng cụ trợ giúp; tái sử dụng dụng cụ trợ giúp… trên cơ sở đó qui định chính sách rõ ràng.

Cùng với đó, có qui định về tiêu chuẩn, qui chuẩn dụng cụ trợ giúp đối với NKT; nâng cao chất lượng đội ngũ kỹ thuật viên tại các cơ sở y tế... Tăng cường tuyên truyền, truyền thông liên quan đến dụng cụ trợ giúp đối với NKT. Ngoài ra, cần có cơ chế để thúc đẩy các tổ chức, cá nhân, đơn vị tham gia hỗ trợ dụng cụ trợ giúp, thúc đẩy, phát triển dịch vụ cung cấp dụng cụ trợ giúp, sản xuất, sửa chữa, xuất nhập khẩu, kích cầu, hạ giá thành… Các tổ chức vì NKT, phi chính phủ, các cá nhân cần đẩy mạnh tham gia thúc đẩy việc thực hiện các chính sách đối với NKT, góp ý sửa đổi, bổ sung và thực thi, giám sát thực hiện hiệu quả các chính sách đối với NKT, trong đó tăng cường các hoạt động liên quan đến dụng cụ trợ giúp đối với NKT.

Đọc thêm

Ghi nhận 1 ca tử vong, TP HCM cảnh báo dịch sốt xuất huyết

Ảnh minh họa
(PLVN) - Mặc dù số ca mắc sốt xuất huyết tại TP HCM giảm so với cùng kỳ năm 2023, tuy nhiên từ tuần 37 đến nay số ca mắc có xu hướng tăng liên tục hàng tuần và đã có 1 trường hợp tử vong. Ngành y tế TP HCM cảnh báo nguy cơ ca bệnh sốt xuất huyết vẫn sẽ tiếp tục tăng.

'Vẽ' cờ Tổ quốc từ những tấm giấy đỏ đặc biệt

Lá cờ Tổ quốc hình thành từ quá trình tích cực tham gia hoạt động hiến máu nhân đạo gần 20 năm qua của Thiếu tá Phạm Văn Hiếu. (Ảnh: Văn Hiếu)
(PLVN) - Không cần dùng đến bút vẽ hay màu vẽ, nhiều gương mặt tiêu biểu trong phong trào hiến máu tình nguyện đã tạo nên bức tranh lá cờ Tổ quốc đỏ tươi, lấp lánh từ chính những tấm giấy chứng nhận hiến máu của mình. Những lá cờ được tạo thành từ những tấm giấy đỏ đặc biệt không chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng mà còn lan tỏa thông điệp sâu sắc về tinh thần đoàn kết và trách nhiệm với cộng đồng.

Thực hiện bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số

Buổi truyền thông về bình đẳng giới góp phần thực hiện hiệu quả Dự án 8 tại xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, Hà Giang. (Ảnh: Hội LHPN tỉnh Hà Giang)
(PLVN) - Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo, thúc đẩy bình đẳng giới, bảo vệ quyền và tăng cường vai trò đóng góp của phụ nữ trong mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội. Với những nỗ lực không ngừng nghỉ, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bình đẳng giới, nổi bật trong số đó là việc thúc đẩy bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

'Yêu mới ghen' hay bạo lực giới - góc nhìn từ cơ quan giám định pháp y

Hình minh họa
(PLVN) - Nhiều người vẫn quan niệm “yêu mới ghen” để từ đó dẫn đến các hành động sai lầm trong ứng xử, thậm chí là vi phạm pháp luật vì “cuồng yêu, cuồng ghen”. Nhân Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng ngừa ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới năm 2024, nhiều câu chuyện “tận mục sở thị” ở Trung tâm Pháp y Hà Nội đã để lại những vấn đề đáng để suy ngẫm…

Vì sao cứ phải 'trai xanh, gái hồng'?

 Ảnh minh họa. (Nguồn: Afamily)
(PLVN) - Xã hội chúng ta vẫn đã và đang mặc định rằng, màu hồng (hay những màu sắc rực rỡ) là dành cho con gái, còn màu xanh (hay những gam màu lạnh) là dành cho con trai. Trong khi đó, theo các nghiên cứu, việc xóa bỏ định kiến giới trong màu sắc quần áo, đồ chơi không chỉ giúp trẻ phát triển cân bằng mà còn đóng góp vào việc thay đổi nhận thức xã hội về vai trò giới tính, từ đó thúc đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực của đời sống. Hiện nay, nhiều quốc gia và doanh nghiệp đang nỗ lực xóa bỏ định kiến giới trong màu sắc quần áo, đồ chơi trẻ em.

Trở thành một phụ nữ đúng nghĩa

Ảnh minh họa. (Nguồn: TCNDN)
(PLVN) - Trong xã hội Việt Nam hiện nay dường như đã có sự chia phe của hai kiểu mẫu phụ nữ: kiểu mẫu “người mẹ” và kiểu mẫu “người tình”. Hai phe này thậm chí còn luôn chê trách, dè bỉu lối sống của nhau. Cách phân chia như vậy hình thành từ rất lâu đời, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở trên thế giới. Việc phân chia này là không tự nhiên và đến từ sự phân công lao động trong xã hội phụ hệ.

Pháp luật - Nền tảng thúc đẩy văn hóa bình đẳng giới

Các chính sách và chương trình như Đề án 1898 đã giúp nâng cao vai trò và vị thế của phụ nữ dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực xã hội. (Ảnh: dangcongsan.vn)
(PLVN) - Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, pháp luật đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng văn hóa ứng xử về bình đẳng giới, hướng tới thu hẹp và xóa bỏ khoảng cách giới trong xã hội.

Văn hóa ứng xử trong bối cảnh chuyển đổi số: Làm gì để khoảng cách giới không bị nới rộng?

Phụ nữ đang đối mặt với nguy cơ cao hơn về bạo lực giới trong môi trường số. (Ảnh trong bài: AI)
(PLVN) - Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đang mở ra những cơ hội to lớn để thúc đẩy bình đẳng giới, đồng thời cũng mang lại những thách thức nhất định, trong đó có nguy cơ mở rộng khoảng cách giới nếu không có những giải pháp phù hợp. Trong bối cảnh này, văn hóa ứng xử giữ vai trò quan trọng, không chỉ giúp thu hẹp khoảng cách giới mà còn tạo nên một môi trường số an toàn, công bằng và văn minh hơn.

Bất bình đẳng giới 'ẩn' trong tiềm thức

Gia đình Tiktok Pam yêu ơi được tuyên dương tại Chương trình Gia đình trẻ hạnh phúc 2024. (Ảnh: Đ.H)
(PLVN) - Ở Việt Nam, phụ nữ có hai ngày để được tôn vinh, chưa kể các ngày Lễ Tình yêu, Noel…, tới mức nhiều người có cảm giác xa lạ với định kiến giới. Thế nhưng, bất bình đẳng giới dường như vẫn ẩn sâu trong tiềm thức, văn hóa của người Việt, rằng “đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”…

Văn hóa ứng xử bình đẳng giới vẫn chưa được coi trọng

Áp lực cuộc sống khiến một số phụ nữ bị trầm cảm. (Ảnh: Hồng Ngọc)
(PLVN) - Cuộc sống hiện đại với những khía cạnh của văn hóa ứng xử bình đẳng giới vẫn không được coi trọng từ công việc, mối quan hệ trong gia đình, xã hội, thậm chí ngay trong chính bản thân mỗi người. Những cú sốc, sự thất bại hoặc môi trường tâm lý không thuận lợi khiến nhiều phụ nữ chịu tác động của những sang chấn tâm lý gây trầm cảm.

Khi bình đẳng giới là một tiêu chí văn hóa

Tọa đàm và giới thiệu sách Bình đẳng giới tại nơi làm việc. (Nguồn: NXBPN)
(PLVN) - Trong cuộc sống đời thường, văn hóa thường được dùng với nghĩa một đánh giá tổng hòa về trình độ học thức, lối sống, hành xử của một cá nhân như trong các cụm từ thường gặp: “người có văn hóa”; “hành xử có văn hóa”… Từ đó có thể nhận định, đề cao sự bình đẳng giới trong ứng xử cũng là một phần của văn hóa ứng xử hướng tới sự chuyên nghiệp, văn minh và có tính nhân văn cao giữa cá nhân với cá nhân cũng như trong cộng đồng, xã hội.

Ngành giáo dục việt nam: Mang tinh thần của một dân tộc, càng áp lực càng nỗ lực

Thủ tướng Phạm Minh Chính trò chuyện, động viên các thầy cô giáo. (Ảnh: MOET)
(PLVN) - Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, hướng tới kỷ nguyên mới, kỷ nguyên xây dựng đất nước giàu mạnh và thịnh vượng thì giáo dục tiếp tục là quốc sách hàng đầu. Sự nghiệp giáo dục nước nhà phải quyết liệt đổi mới căn bản và toàn diện hơn nữa, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, để giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á vào năm 2030 và đạt trình độ tiên tiến của thế giới vào năm 2045.