Dự thảo đã nêu rõ những quy định nhằm quản lý, sử dụng đất bãi bồi ven sông, đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển.
Cụ thể, theo dự thảo, thẩm quyền quyết định cho thuê đất bãi bồi ven sông, đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển chưa sử dụng để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối thực hiện theo quy định sau: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh) quyết định cho thuê đất đối với tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư; UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp huyện) quyết định cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá nhân.
Dự thảo nêu rõ, đất bãi bồi ven sông, đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển được cho thuê sử dụng vào mục đích nào thì áp dụng quy định về chế độ sử dụng đất đối với loại đất có cùng mục đích đó.
Dự thảo cũng nêu rõ quy định đối với đất bãi bồi ven sông, đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển đã đưa vào sử dụng mục đích nông nghiệp trước ngày 1/7/2014 (thời điểm Luật đất đai có hiệu lực).
Cụ thể, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất bãi bồi ven sông, ven biển, đất có mặt nước ven biển để sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì được tiếp tục sử dụng đất bãi bồi ven sông, đất bãi bồi ven biển trong thời hạn giao đất còn lại. Đồng thời, được tiếp tục sử dụng đất có mặt nước ven biển trong thời hạn giao đất còn lại đối với đất được giao theo phương án giao đất của địa phương theo quy định.
Những đối tượng này cũng được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất còn lại đối với đất bãi bồi ven sông, đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, được thừa kế quyền sử dụng đất từ đất có nguồn gốc do được Nhà nước giao đất; đồng thời, phải chuyển sang thuê đất kể từ ngày 1/7/2014 đối với phần diện tích đất ngoài hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp. Khi hết thời hạn giao đất, nếu có nhu cầu sử dụng, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và không vi phạm pháp luật về đất đai thì được xem xét cho thuê đất.
Theo dự thảo, tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho thuê đất bãi bồi ven sông, ven biển, đất có mặt nước ven biển đã đưa vào sử dụng mục đích nông nghiệp trước ngày 1/7/2014 được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thuê đất còn lại. Khi hết thời hạn thuê đất, nếu có nhu cầu sử dụng, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và không vi phạm pháp luật về đất đai thì được xem xét cho thuê đất.
Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất bãi bồi ven sông, ven biển, đất có mặt nước ven biển do tự khai hoang, nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì phải chuyển sang thuê đất. Đất bãi bồi ven biển, đất có mặt nước ven biển đã được trồng rừng thì giao cho tổ chức quản lý rừng phòng hộ, tổ chức quản lý rừng đặc dụng hoặc giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng.
Theo dự thảo, đất bãi bồi ven sông, ven biển chưa sử dụng được UBND cấp có thẩm quyền cho thuê sử dụng vào mục đích nào thì xác định là loại đất phi nông nghiệp có mục đích đó kể từ ngày có quyết định cho thuê đất.
Căn cứ để quyết định cho thuê đất bãi bồi ven sông, đất bãi bồi ven biển sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp gồm: Kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được UBND cấp tỉnh phê duyệt; nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp của người xin thuê đất.