Người cứu Phan Châu Trinh khỏi án chém

Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu thuế nổ ra ở Trung Kỳ. Phan Châu Trinh, do đã từng phát biểu chính kiến và hành động thể hiện đường lối cứu nước lâu dài của mình, nhân sự kiện này đã bị Pháp “chụp mũ” là người khởi xướng và cho người bắt cụ.

Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu thuế nổ ra ở Trung Kỳ. Phan Châu Trinh, do đã từng phát biểu chính kiến và hành động thể hiện đường lối cứu nước lâu dài của mình, nhân sự kiện này đã bị Pháp “chụp mũ” là người khởi xướng và cho người bắt cụ.

Mô tả ảnh.
Thành viên Phủ Phụ Chính triều Duy Tân. Từ trái qua: Thượng thư (TT) Tôn Thất Hân (Bộ Hình), TT Nguyễn Hữu Bài (Bộ Lại), TT Huỳnh Côn (Bộ Hộ), Hoàng thân Miên Lịch, TT Lê Trinh (Bộ Lễ), TT Cao Xuân Dục (Bộ Học) (Ảnh chụp năm 1907).
 
Cụ Phan bị bắt ở Hà Nội, giải về Huế. Viên Khâm sứ Trung Kỳ lúc đó là Lévecque đã dùng áp lực buộc Phủ Phụ chính của Nam triều phải xử chém cụ về tội kích động dân chúng chống lại Chính phủ Pháp.

Tuy nhiên, trong bản án đầu tiên lập ngày 10-4-1908, Phủ Phụ chính cho rằng Phan Châu Trinh có “âm mưu phản nghịch nhưng chưa thực hiện”, nên đã không xử trảm quyết (chém ngay) mà xử nhẹ hơn ở mức “Trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên” (giam lại chém sau, đày xa ba nghìn dặm, gặp kỳ ân xá cũng không cho về).

Trong số 8 thành viên của Phủ Phụ chính lúc đó có Thượng thư Bộ Lễ Lê Trinh, cấp trên của Phan Châu Trinh. Cụ Phan sau khi đỗ Phó bảng, được bổ chức hành tẩu, ngạch kiểm thảo ở Bộ Lễ, nhưng chỉ làm quan chiếu lệ. Cụ thường hay bỏ việc quan, đi đây đi đó tìm người đồng chí hướng, mưu việc lớn, đến nỗi Thượng thư Lê Trinh phải cười bảo: “Một anh thừa biện của Bộ tôi mà cả năm tôi không thấy mặt”. Như thế, ông Trinh họ Lê xử ông Trinh họ Phan là xử nhân viên dưới quyền.

Quay lại với bản án nói trên. Mức án “nhân đạo” này đã bị Khâm sứ Lévecque bác ngay trong phiên họp diễn ra một ngày sau đó. Y cho rằng Phủ Phụ chính đã nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật khi vận dụng điều 224 về “mưu loạn vị hành” (mưu loạn nhưng chưa làm) đối với trường hợp Phan Châu Trinh, vì không thể nói ông “mưu loạn nhưng chưa làm” mà chính ông đã tổ chức “sách động” dân chúng gây ảnh hưởng không chỉ ở Quảng Nam mà cả ở các tỉnh Trung Kỳ, đã đi từ Nam chí Bắc tổ chức những hội kín, liên lạc thường xuyên với Phan Bội Châu...

Muốn nhổ ngay cái gai trước mắt, Lévecque cho rằng phải áp dụng điều 223 về “tội làm loạn” cho trường hợp Phan Châu Trinh mới đúng. Y nhắc Phủ Phụ chính “phải áp dụng đúng đắn văn bản pháp luật, không để cho những suy nghĩ khác chi phối”, phải “xem xét lại bản án này”.

Nhưng Phủ Phụ chính, đứng đầu là Cao Xuân Dục và Lê Trinh, đã dũng cảm cưỡng lại lệnh Khâm sứ. Và trong bản án thứ hai mà Phủ Phụ chính làm lại sau khi đấu tranh với Lévecque, y đã phải duyệt y án ban đầu là xử Phan Châu Trinh với mức trảm giam hậu.

Lâu nay, dư luận cho rằng chính Nam triều đã xử tử hình Phan Châu Trinh, nhờ có Liên minh Nhân quyền (Pháp) can thiệp nên án tử đã được đổi thành khổ sai chung thân. Sự thực không phải như vậy.

Để chứng minh điều này, tác giả Nguyễn Hoàn trong bài viết “Thượng thư Lê Trinh, người tôn vua Duy Tân và xử cho Phan Châu Trinh thoát khỏi án chém” (đăng trên báo Quảng Trị số ra ngày 1 và 3-12-2004) đã dẫn những tài liệu mới do bà Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh, cháu ngoại cụ Phan) sưu tầm tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Hải ngoại Pháp (Centre des Archives d’Outre Mer), được tập hợp in vào sách “Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới”, NXB Đà Nẵng, 2001.

Theo sách đã dẫn, quyển 2, tập 1, trang 8, trong quá trình xét xử cụ Phan tại Huế, chính Lévecque đã “cố gò Phủ Phụ chính vào quyết định “trảm quyết” nhưng nhờ lương tri và dũng khí của các thượng thư, nổi bật nhất là hai cụ Cao Xuân Dục và Lê Trinh, đã dám lên tiếng cãi lại Lévecque với sự đồng tình của toàn Phủ Phụ chính. Nhờ vậy mà Phan Châu Trinh đã thoát án chém tức thì, lãnh án chém nhưng giam lại”.

Công lao của Phủ Phụ chính, trong đó đứng đầu là Thượng thư Lê Trinh, đã được cụ Phan ghi lại với nhiều cảm kích trong bản điều trần “Những cuộc biểu tình năm 1908 của dân Trung Kỳ - Đơn xin ân xá” bằng tiếng Pháp, được cụ ký ngày 8-4-1912 tại Paris, gửi Liên minh Nhân quyền Pháp để chuyển đến Bộ trưởng Thuộc địa Pháp. Văn bản có đoạn như sau, theo sách đã dẫn, quyển 4, tập 1, trang 258-259:

“Trong một thời gian ngắn nhiều bản án đã được chính quyền Pháp phê duyệt xử phạt các nhà nho bị bắt, trong đó có tôi, người thì án tử hình, người thì án lưu đày hoặc khổ sai chung thân. Tôi xin nói rõ ở đây, để làm rạng danh họ, rằng một số vị quan Triều đình Huế, mặc dù bị sức ép của Tòa Khâm sứ, đã từ chối ký vào bản án tử hình của tôi vì họ chẳng tìm ra điều gì để buộc tội tôi, ngoài một điều là tôi đã không làm vừa lòng một số quan chức. Nhân đây, tôi xin tỏ lời khen về một chút liêm sỉ còn sót lại trong các bản án man trá chứa đựng biết bao điều tàn bạo”.

Nhờ “một số vị quan Triều đình Huế” cùng với “một chút liêm sỉ còn sót lại” của người Pháp, cụ Phan đã thoát án chém, tiếp tục hoạt động yêu nước cho đến 21 giờ 30 ngày 24-3-1926 – thời khắc cụ qua đời tại Sài Gòn.

Mô tả ảnh.
Phó bảng Lê Trinh (1850 - 1909) (ảnh) là Thượng thư Bộ Lễ và Bộ Công của triều Nguyễn, người làng Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị. Năm 20 tuổi ông đỗ giải nguyên kỳ thi Hương khoa Canh Ngọ, Tự Đức năm thứ 23 (1870). 25 tuổi, ông đỗ phó bảng kỳ thi Hội khoa Ất Hợi, Tự Đức năm thứ 28 (1875). Từ đó, ông đã ra làm quan, trải qua 6 triều vua: Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân.
Dựa vào thẩm quyền của một Phụ chính đại thần Nam triều, cụ Lê Trinh đã khôn khéo cứu cụ Phan Châu Trinh thoát án chém mà Khâm sứ Pháp không thể bác bỏ được.
 
VĂN THÀNH LÊ