Người... "cắt nửa vầng trăng"
QTV - An Thuyên được đông đảo công chúng yêu âm nhạc biết đến từ tác phẩm Em chọn lối này, viết năm 1971 (khi tròn 21 tuổi). Rồi tiếp tục gặt hái nhiều thành công: Giải Nhất cuộc thi ca khúc toàn quốc năm 1985 với tác phẩm: Tiếng đàn balalaica trên sông Đà (phỏng thơ Quang Huy);
QTV - An Thuyên được đông đảo công chúng yêu âm nhạc biết đến từ tác phẩm Em chọn lối này, viết năm 1971 (khi tròn 21 tuổi). Rồi tiếp tục gặt hái nhiều thành công: Giải Nhất cuộc thi ca khúc toàn quốc năm 1985 với tác phẩm: Tiếng đàn balalaica trên sông Đà (phỏng thơ Quang Huy); giải thưởng chính thức của Bộ Quốc phòng về hai tác phẩm: Hành quân lên Tây Bắc (1984), Thơ tình của núi (1994); giải Nhất của Bộ Văn hóa - Thông tin và Hội Nhạc sĩ Việt Nam: Khi xe tăng qua miền Quan họ (1985), Mẹ Việt Nam anh hùng (1995); giải Nhì Hội Nhạc sĩ Việt Nam: Chín bậc tình yêu (1992); Phật bà nghìn mắt, nghìn tay; hợp xướng Chào Việt Nam thênh thang mùa xuân (2004); giải Nhất Hội Nhạc sĩ Việt Nam: Đi tìm bóng núi (2004)... Không chỉ thành công với nghiệp sáng tác, hoàn thành tốt chức trách của Phó Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam, mà với cương vị Bí thư đảng ủy, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật Quân đội, An Thuyên đã cùng đồng nghiệp vực dậy thành công một trường đào tạo của quân đội tưởng như đã lùi vào quên lãng. An Thuyên tâm sự: Cứ sống hết mình với cuộc sống thì cuộc đời sẽ ban tặng lại cho mình. Nội dung cuộc trò chuyện sau đây với phóng viên Tạp chí Xây dựng Đảng cho thấy điều đó.
Con đường mà Nhạc sĩ đến với nghệ thuật, đến với cách mạng, phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đêm 15 tháng 8 năm 1949 mẹ sinh tôi vừa lúc trăng lên. Mờ sáng hôm sau giặc đổ bộ vào huyện Quỳnh Lưu, cả làng phải sơ tán. Tôi được mẹ và bà con bế qua sông Hoàng Mai. Mẹ bị mất sữa, tôi được chuyền tay bú dòng sữa của xóm làng. Giặc vào làng, chúng quàng áo tơi giả dân thường đi trên đường Quốc lộ 1. Một tiểu đoàn bộ binh của ta từ phía Nam hành quân ra bất ngờ đụng chúng. Hiện nay, ta đi trên đường Quốc lộ 1 qua cầu Hoàng Mai là đến đồi thông, nơi nằm lại của 49 anh bộ đội đã hy sinh trong lần đó. Tôi bao nhiêu tuổi thì 49 liệt sỹ ấy đã ngã xuống bấy nhiêu năm. Ra đời gắn với tiếng súng, sự hy sinh vì đất nước, được nuôi trong lòng xóm làng, tôi đến với cách mạng ngay từ thuở mới lọt lòng. Con người nghệ sĩ bây giờ làm được bao nhiêu cho quê hương cũng chưa đủ trả nợ tình nghĩa quê hương, xóm làng, những người đã hy sinh. Được sinh ra và lớn lên từ vùng quê nghèo (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An), một vùng quê đượm truyền thống văn nghệ dân gian; những buổi chiều chăn trâu, những tiếng sáo diều, tiếng cồng chiêng của đồng bào dân tộc thiểu số đã ăn sâu vào tiềm thức. Môi trường thuần chất âm nhạc dân gian có một sức cuốn hút kỳ lạ và “dòng sữa” ban đầu của thế giới âm nhạc đó đã tác động trực tiếp đến thiên hướng sáng tác của tôi sau này. Hồi học phổ thông tôi đã sáng tác Nối gót anh hùng nói về mấy tấm gương anh hùng huyện Quỳnh Lưu và được nhận giải thưởng Nguyễn Hữu Đội. Nhà thơ Trần Hữu Thung, nhà viết kịch Nguyễn Trung Phong (tác giả Cô gái Sông Lam) ở Ty Văn hóa Nghệ An đến làng, thấy tôi có năng khiếu đưa về Đoàn Văn công tỉnh làm cán bộ sưu tầm, nghiên cứu âm nhạc dân gian. Đến năm 1971, tôi được Chi bộ Ty Văn hóa Nghệ An kết nạp trong đợt kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh đầu tiên. Lúc đó tôi mới 21 tuổi, là người trẻ tuổi nhất của Ty được kết nạp. Cảm giác xúc động, giờ phút thiêng liêng, tự hào đó luôn thôi thúc tôi cống hiến nhiều hơn nữa. Tôi sáng tác khá nhiều, cả kịch hát, kịch múa, ca khúc... nhưng thực ra vẫn còn phải cố gắng rất nhiều, bởi những thành quả mình đạt được cũng chỉ rất là nhỏ thôi. Hy vọng trong tương lai, với những tác phẩm mới của mình, tôi có thể làm thêm một điều gì đó có ý nghĩa hơn nữa.
Nhạc sĩ nghĩ thế nào về hai vai đảng viên - nghệ sĩ trong cùng một con người?
Nói đến đảng viên là nói đến bản lĩnh, tính chiến đấu. Nghệ sĩ cũng không ngoài phẩm chất đó. Nghệ sĩ mà thiếu tính chiến đấu, thiếu quyết tâm lao động sáng tạo, không có nhân sinh quan vững vàng, gió chiều nào xuôi chiều ấy thì không thể có tác phẩm hay. Còn tính sáng tạo thì không chỉ nghệ sĩ mà đảng viên cũng cần có. Nếu quan niệm đảng viên là khô cứng thì hoàn toàn không phải. Tính lãng mạn, hướng về cái đẹp, cái thiện rất cần thiết với người đảng viên. Nếu người đảng viên quan tâm đến quần chúng, quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của đồng chí, đồng nghiệp thì bản chất của nghệ thuật là tình yêu với con người, hiểu con người để có tình yêu thật đúng, phản ánh nó bằng tác phẩm nghệ thuật của mình. Đảng viên phấn đấu cho xã hội tươi đẹp, nghệ sĩ cũng hướng đến cái thiện, cái đẹp. Không có gì là mâu thuẫn giữa hai vai đảng viên, nghệ sĩ trong cùng một con người, mà chính là chất đảng viên, chất nghệ sĩ còn hỗ trợ nhau, hướng con người tới cái đẹp, chân, thiện, mỹ.
Về đảng viên trong thời chiến và thời bình?
Thời chiến cả đất nước hướng về sự sống còn của Tổ quốc thì đảng viên dễ dàng chấp nhận hy sinh cả cuộc sống của mình. Thời bình người ta có điều kiện chăm sóc cho đời sống riêng tư, chăm lo cho gia đình của mình, có điều kiện hưởng thụ hơn thì sự hy sinh không dễ dàng. Đảng viên phấn đấu, hy sinh trong hòa bình thực ra gay go hơn rất nhiều so với thời chiến. Đảng viên trong thời bình phải có tri thức, biết lao động có hiệu quả, biết hy sinh vì sự mạnh giàu của đất nước.
Là nhạc sĩ đã sử dụng rất thành công chất liệu dân ca trong sáng tác, thế còn cách để An Thuyên làm giàu ngôn từ?
Nghệ thuật không phải cái gì đó rất cao siêu mà là ở những điều thật giản dị; quan trọng là cái hồn, mà hồn của mình lại hoàn toàn là của một anh nông dân chân chất, mộc mạc. Chất “quê” là cái sẵn có trong máu thịt, nhưng nếu không đánh thức, khai thác thì muôn đời nó vẫn chỉ là tiềm ẩn. Mà muốn đánh thức được nó không thể không có vốn sống. Cách để nạp “năng lượng” cho mình là học từ các nhà văn, nhà thơ, từ ca dao, dân ca, lời ăn tiếng nói của ông bà. Đi công tác ở đâu, việc đầu tiên là tôi tìm đọc tập thơ của địa phương đó. Tôi như con dã tràng xe cát tìm ngọc, đọc rất nhiều, chỉ cần mỗi tập thơ mình đọc được một ý hay là tốt rồi. Ca từ chiếm vai trò quan trọng trong bài hát. Nếu không có vốn lời hay, rất khó để có giai điệu đẹp. Học cách nói của các nhà thơ chính là để đồng điệu với tác giả và để tạo sự đa dạng cho tác phẩm mình. Toàn bộ ý tứ trong bài hát của tôi đều có ở trong ca dao, trong thơ của người đi trước, chẳng qua mình lẩy ra thôi. Ví dụ như Cắt nửa vầng trăng... là học cụ Nguyễn Du: Vầng trăng ai xẻ làm đôi, chứ đâu phải sáng tạo độc đáo của riêng mình. Mình thêm bẻ đôi câu thơ vì bẻ là một động từ rất Nghệ...
Có bao giờ Nhạc sĩ sợ dẫm vào vết chân người khác và của chính mình?
Sao lại phải sợ điều ấy. Mấy ai không thừa hưởng tinh hoa của những người đi trước đâu. Điều cốt yếu là đừng có rập khuôn mà tìm ra được cái riêng của mình, cái không giống một ai chính trên điều tinh hoa ấy. Âm nhạc dân gian giống như một dòng sông mênh mông, mát rượi, nếu anh sợ, anh không tắm thì thật là phí. Nhưng nếu anh tắm mà không biết bơi thì sẽ chìm. Cũng như khai thác âm nhạc dân gian, nếu không có cách nhìn mới, cảm thụ mới thì sẽ trở nên khô cằn và đơn điệu.
![]() |
|
Nhạc sĩ An Thuyên (đứng giữa) đang tuyển chọn tài năng âm nhạc ở một lớp học miền núi Tây Bắc.
Ảnh: TL
|
Có những đêm lặn lội giữa cơn mưa ra bãi sông Hồng để tìm nhà cô bé được giải nhất trong một cuộc thi giọng hát hay, có những chuyến vượt rừng, lội suối vào tận bản làng, thắp đuốc để tổ chức thi tuyển chọn nhân tài. Động lực nào đã thôi thúc Nhạc sĩ?
Nhà tôi vốn làm nghề hát xẩm gia truyền. Thế mà năm 14 tuổi, khi thi vào Nhạc viện Hà Nội tôi bị đánh trượt vì bị cho là “không có năng khiếu”. Thất vọng và ấm ức, tôi đã nỗ lực trau dồi khả năng âm nhạc, để rồi phải tới 16 năm sau, tức là đã 30 tuổi, tôi mới thi đỗ vào Nhạc viện Hà Nội, khi đã có một số ca khúc được biết đến như Em chọn lối này, Cung bậc tình yêu... Chúng ta đã và đang lãng phí rất nhiều tài năng (không chỉ trong nghệ thuật) qua cách đánh giá tương đối… vội vàng. Trên cương vị một nhà tuyển sinh, tôi không chọn người theo bất cứ một khuôn vàng, thước ngọc nào mà luôn có những sự linh hoạt, miễn là chọn được những người thực sự có tài năng. Công thức này thường được vận dụng ở các kỳ thi... không chính thức. Không chỉ tuyển sinh qua các kỳ thi, qua các cuộc thi hát, tôi cùng đồng nghiệp còn tổ chức những chuyến đi tới các tỉnh miền núi để kiếm tìm những người có khả năng. Tôi không muốn bỏ sót một tài năng nghệ thuật nào. Tôi vẫn quan niệm, muốn chọn nhân tài khoa học tự nhiên thì nên tìm ở thành phố. Còn muốn tìm tài năng nghệ thuật thì không đâu tốt bằng nông thôn, miền núi. Mà những tài năng ở nông thôn, miền núi thì thường bị ẩn khuất, mình phải tìm, bồi dưỡng. Hy sinh gian khổ lắm chứ, có những lần đốt lửa đi 5 -7 ngày đường, vào từng bản xa để tuyển các em. Có những em khi về Trường chưa hề biết viết tiếng Việt. Trường phải phân công cô giáo dạy văn hóa riêng cho em đó. Vất vả mấy cũng phải làm. Nhờ sự hy sinh gian khổ đó Trường được một sự nghiệp rất lớn, đào tạo hàng nghìn con em dân tộc thiểu số thành tài và riêng bản thân tôi thì hiểu người dân tộc rất nhiều. Các em coi tôi như già làng, trưởng bản của chúng, có gì khó khăn chúng đều tìm đến. Tôi viết nhạc kịch Đất nước đứng lên chính nhờ sự hiểu biết về văn hóa và con người dân tộc qua việc đào tạo, tiếp xúc hàng ngày với các em. Thật mừng là 90% các em học sinh Tây Nguyên đóng trong Nhạc kịch Đất nước đứng lên đang học trong trường đã có thể đóng được opera. Mới đây, khi đưa nhạc kịch Đất nước đứng lên xuống bản Anh hùng Núp, Trường mở luôn điểm tuyển sinh tại bản và quyết tâm phải có người được đào tạo văn hóa nghệ thuật ở một bản giàu truyền thống cách mạng như vậy. Ba em rất có năng khiếu (đều là cháu Anh hùng Núp) đã được tuyển.
Nhạc sĩ muốn nhắn nhủ điều gì với các nhạc sĩ, ca sĩ trẻ?
Hãy biết yêu cuộc sống, yêu con người và hãy biết kế thừa vốn văn hóa dân tộc. Hiện nay, các em có tri thức nhưng tình yêu cũng bị phân tán đi nhiều và ít có điều kiện tiếp xúc và am hiểu vốn văn hóa dân tộc.
Tự mãn là kẻ thù nguy hiểm số một, không chỉ đối với riêng giới làm nghệ thuật mà với bất cứ ai đang nuôi hy vọng vươn tới thành công. Đối với các nhạc sĩ thì có thêm một kẻ thù nữa là thói thờ ơ, xa rời cuộc sống. Nếu một nhạc sĩ thật sự sâu sắc thì anh ta sẽ thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của những chia ly, những sầu thảm... mà ta thường bắt gặp trong những nhạc phẩm về tình yêu mang tính mì ăn liền đã và đang phổ biến trong nhạc trẻ hiện nay. Bởi rõ ràng cuộc sống đâu chỉ có tình yêu lứa đôi, mà tình yêu đâu chỉ có đau khổ. Nếu gần với cuộc sống, ta sẽ thấy có bao đôi lứa đang yêu nhau bằng tình yêu trong sáng, thuần khiết. Và nếu sâu sát cuộc sống hơn nữa ta sẽ thấy quanh ta nhân loại đâu chỉ có buồn, có khổ vì tình yêu. Còn bao cụ già, bao em nhỏ đang lang thang nơi góc chợ, gầm cầu để mong có một bữa no, một miếng ăn qua ngày. Còn bao con người đang sống hiu hắt ở những vùng xa xôi, hẻo lánh. Ta đã làm được những gì cho họ? Nhạc sĩ trẻ phải luôn cố gắng tiếp cận cuộc sống, đi vào từng ngóc ngách của cuộc sống, lăn lộn với cuộc sống để suy nghĩ sâu sắc hơn, trải nghiệm hơn. Khi nhìn thấy khổ đau phải rơi nước mắt, khi nhìn thấy con người sung sướng phải vui lây. Nghĩa là phải đau nỗi đau của nhân thế, vui với niềm vui chung. Như thế, từng nốt nhạc, từng con chữ viết ra mới là tiếng của đời, hồn của người. Thói vô cảm sẽ giết chết khát vọng vươn tới nghệ thuật đích thực.
Xin chân thành cảm ơn Nhạc sĩ.
Theo xaydungdang.org.vn
