Người Bí thư Đặc khu Đoàn ngày ấy!

Năm nay là Năm Thanh niên, năm kỷ niệm lần thứ 80 Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26-3-1931 - 26-3-2011). Những ngày này, Đoàn Thanh niên và tuổi trẻ cả nước đang tổ chức nhiều phong trào thi đua lập thành tích xuất sắc chào mừng ngày lễ trọng thể này.

Năm nay là Năm Thanh niên, năm kỷ niệm lần thứ 80 Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26-3-1931 - 26-3-2011). Những ngày này, Đoàn Thanh niên và tuổi trẻ cả nước đang tổ chức nhiều phong trào thi đua lập thành tích xuất sắc chào mừng ngày lễ trọng thể này.

Trong quá trình đi theo Đảng hoạt động cách mạng, tôi có may mắn gần 20 năm được làm chuyên trách công tác Đoàn và phong trào thanh niên tỉnh nhà, nay tuổi đời đã quá 60, nhưng cứ mỗi lần đến ngày thành lập Đoàn 26-3, trong tôi lại rộn lên nhiều kỷ niệm vui, buồn của thời tuổi trẻ sôi nổi ấy. Nhớ mãi thời đó, chúng tôi làm công tác Thanh vận của Đảng không chỉ có lòng nhiệt tình và sự giác ngộ lý tưởng cách mạng, một ý chí quyết tâm đánh giặc giành độc lập tự do; mà ngày đó, chúng tôi làm công tác Đoàn và phong trào thanh niên còn một niềm vui, niềm đam mê với phong trào, với công việc, với niềm tin yêu thế hệ trẻ.

Tôi nhớ mãi tấm gương, hình ảnh đồng chí Bí thư Đoàn     tôi gặp đầu tiên, và cũng từ đó, tôi được công tác với anh một thời gian gần 4 năm, đó là đồng chí Bí thư Đặc khu Đoàn Quảng Đà Phan Văn Nghệ. Lần đầu gặp anh, tôi như bị anh cảm hóa, tôi thật sự quý mến và tin tưởng ở anh. Anh dáng người tầm thước khỏe mạnh, nước da, mái nước dưa rắn chắc, anh nhanh nhẹn, vui vẻ, và bao giờ cũng thấy ở anh toát lên một niềm lạc quan cách mạng. Anh xông xáo trong công việc và luôn đi sâu sát cơ sở, bám sát thực tiễn phong trào, anh hay đi công tác xuống vùng sâu, anh rất quan tâm đến công tác thanh niên và phong trào sinh viên, học sinh đô thị. Chuyện gì của cơ quan, đơn vị làm, có điều kiện, anh đều tham gia, anh chẳng câu nệ chuyện đó là của nhân viên. Có lần, anh đang ngồi làm việc thấy chị nuôi loay hoay vì hết củi đun, anh nghỉ giải lao, tay xách rựa ra rừng lát sau vác về một bó củi khô to, góp phần cùng chị nuôi để có cơm ngon, canh ngọt cho anh chị em cơ quan.

Chẳng phải bắt buộc, nhưng nó đã trở thành một tiền lệ đẹp trong cơ quan tự bao giờ, cán bộ nào đi công tác đồng bằng về đều mua hàng hóa, lương thực, thực phẩm mang về góp chung phục vụ cho cuộc sống, công tác của tập thể cơ quan. Gùi hàng mà anh mang về nếu đi dọc đường gặp anh, anh “nhờ” gùi giúp, thì người khỏe như tôi lúc đó cũng phải chia làm hai mới mang hết.

Anh sống, làm việc trong cơ quan khá tâm lý, cởi mở dễ gần, dễ mến, anh thương yêu quý trọng anh chị em trong cơ quan, đặc biệt số anh chị em trẻ từ phong trào thành phố thoát ly ra, anh luôn gần gũi, giúp đỡ chân tình. Thời gian đầu, khi tôi về cơ quan, anh chưa phân công đi công tác phong trào, anh tâm tình bày vẽ kinh nghiệm công việc, anh giao tài liệu cho tôi đọc nghiên cứu để nắm rõ chủ trương của Đảng, của Đoàn, nắm rõ phương thức hoạt động; anh thường nhắc nhở, gần gũi tâm sự với anh chị em đi công tác về để hỏi thăm nắm bắt tình hình, kinh nghiệm công tác...

Anh biết bác Hồ Nghinh, chú Sáu Nam rất quan tâm đến anh chị em cán bộ cơ quan Đặc khu Đoàn, đặc biệt những lúc tình hình gặp khó khăn. Nhiều lần anh viết thư báo cáo tình hình cơ quan, tình hình phong trào Đoàn và công tác thanh niên Đặc khu cho các ông nhiều lúc tình hình địch đánh phá căng thẳng, cơ quan gặp khó khăn lương thực, thực phẩm, anh đặt vấn đề xin giúp đỡ. Tôi nhớ có lần chạy đến gặp chú Sáu Nam, trên đường đi công tác, tôi rất mừng hỏi thăm sức khỏe chú, chú cảm ơn và hỏi đi đâu, tôi thưa anh Nghệ cho con đem thư đến chú. Tôi trao thư, chú ngồi ngay trên hòn đá ven đường đọc xong liền lấy xắc cốt để đầu gối viết bên góc thư, đề nghị K... xuất cho Đặc khu Đoàn số lượng hàng hóa, lương thực theo yêu cầu trong thư (chú gạch dưới dòng lượng hàng hóa, lương thực theo yêu cầu) và trao thư lại cho tôi, khuyên tôi cố gắng công tác tốt, có dịp chú ghé thăm cơ quan. Trên đường về, tôi mừng thầm mình làm được việc anh em cơ quan sẽ bớt khổ, tác phong làm việc theo kiểu thời chiến thế mà được việc, “cơ quan đầu gối, hậu cần trên lưng”, không có chuyện “thủ kho to hơn thủ trưởng” hay “trên bảo dưới không nghe” như một số trường hợp bây giờ.

Về cơ quan được mấy tháng, chẳng thấy anh phân công đi đồng bằng cùng anh chị em, ở nhà hoài thấy anh chị em đi công tác về vất vả lại mang lương thực, thực phẩm về nuôi mình, tôi thấy như mình có lỗi. Tôi đánh liều thưa với anh: Em tình nguyện xin về Nam, về quê hương công tác, chiến đấu cùng bà con, xin anh cho em đi “thử lửa”… Chẳng lâu sau đó, nguyện vọng của tôi được anh giải quyết. Anh phân công tôi xuống công tác cùng Huyện Đoàn Đại Lộc, lúc đó đồng chí Nguyễn Thanh Lam làm Bí thư Huyện Đoàn. Anh cũng có thư riêng cho đồng chí Phan Thanh Thủ, Bí thư Huyện ủy, anh gửi tôi về công tác ở huyện mong được đồng chí Bí thư giúp đỡ. Để khỏi phụ sự quan tâm của anh, của các đồng chí lãnh đạo Đại Lộc, tôi hết sức cố gắng công tác và luôn viết thư về báo cáo anh.

Anh là con người của hành động, con người của công việc.  Năm 1973, tại chiến trường Quảng Đà, quân Mỹ đã rút, chỉ còn lại ít cố vấn quân sự, sự viện trợ của Mỹ cho quân ngụy chỉ còn là vũ khí, bom đạn, song cũng có phần hạn chế nên địch càn quét, đánh phá vùng giải phóng, đánh phá căn cứ của ta có phần bớt căng thẳng hơn trước. Tình thế cách mạng đang chuyển hướng chiến lược tấn công, kẻ thù chủ trương tái lấn chiếm, tràn ngập lãnh thổ, giành đất, giành dân; ta quyết tâm tấn công ngụy, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng…

Để kịp thời động viên tuổi trẻ toàn Đặc khu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mới của cách mạng, tháng 10-1973, Đặc khu Đoàn tổ chức Đại hội Đoàn. Đây là Đại hội mang ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng, đại biểu về dự Đại hội khá đông, gần 300 người, gồm các đồng chí cán bộ Đoàn, đoàn viên và thanh niên tiêu biểu ở khắp các địa bàn trong toàn Đặc khu; anh chị em thuộc 3 quận của thành phố Đà Nẵng (quận Nhất, quận Nhì, quận Ba); đại biểu 3 khu của Hòa Vang (khu 1, 2, 3); đại biểu của thị xã Hội An, các huyện đồng bằng, miền núi; Đoàn các đơn vị khối Đảng, chính quyền, quân sự, an ninh thuộc Đặc khu. Đại hội cũng rất vinh dự được đón tiếp Đoàn đại biểu Binh Đoàn Trường Sơn là khách mời của Đại hội.
 
Để bảo đảm cho Đại hội diễn ra tuyệt đối an toàn, thành công, một điều anh luôn nhắc nhở anh em trong cơ quan, anh chị em đi chuẩn bị phục vụ Đại hội là bảo vệ bí mật, an toàn. Để có một địa điểm tổ chức Đại hội như anh mong muốn và đạt yêu cầu, nhiều lần đích thân anh đi tìm địa điểm, có lần tôi được đi cùng anh, anh đi tay cầm rựa liên tục phát chặt gai gốc, lau sậy, chân anh bước nhanh trong rừng rậm, tôi theo anh mỗi nhiệm vụ mang một gùi nhỏ ít nước uống và ít bánh lương khô 701, 702 và 2 cái võng thế mà bươn theo cho kịp anh cũng bở cả hơi tai. Có lần Đức Hùng cùng đi, Hùng đi lạc đường, tôi phải dùng súng bắn báo lệnh để anh em tìm ra nhau.
 
Anh làm việc tôi cảm thấy như sức anh phi thường, có được địa điểm rồi (tại lưng chừng một ngọn núi có mạch nước ngầm từ lòng núi chảy ra, bên dòng suối địa phương gọi là khe Rạm tại huyện Giằng, nay là Nam Giang), anh huy động anh chị em vào rừng đốn cây, cắt tranh về làm hội trường, làm lán trại phục vụ Đại hội. Một lần đi cắt tranh cùng anh, ban đầu hai anh em cùng cắt, lát sau anh giũ tranh cho sạch, tôi cắm cúi cắt thế mà không đủ tranh cho anh giũ, anh bảo tôi đổi lại anh cắt, tranh anh cắt ra quá nhiều tôi không tài nào giũ hết, khi về anh bảo tôi ráng gùi đi, tôi nhìn lại thấy tranh cắt ra còn nhiều và thầm nghĩ chắc hai anh em phải đi hai lần, thế mà anh bó gùi hết, tôi hổ thẹn sức trai của mình và nói to: Em bái phục sức khỏe thủ trưởng…

Anh làm việc vậy đấy, song tối đến anh lại chong đèn đọc tài liệu, viết nội dung, Nghị quyết Đại hội, anh viết được trang nào đưa ra văn thư đánh máy trang đó, anh viết nhanh, chữ khá đẹp, rõ ràng, anh nói với thanh niên thấy ít bốc, song bài anh viết khá sâu và hay, anh viết gần như ít sửa lại mấy. Khi nào anh đứng dậy đi đi, lại lại trầm ngâm là chắc chắn có trang anh yêu cầu đưa anh chỉnh lại, song việc này là rất ít.

Cơ sở vật chất phục vụ cho Đại hội cũng rất được các đơn vị quan tâm gửi tặng. Binh đoàn Trường Sơn tặng khoảng 3 tấn thịt hộp, lượng khô 701, 702, tặng sổ tay lưu niệm; thanh niên miền núi tặng heo, lòn bon, rau, chuối, sắn, bắp... Một Đại hội khá tươm tất về mọi mặt. Đại biểu ở đồng bằng, thành phố lên lần đầu tiên họ thấy xe tăng, pháo binh, lực lượng bộ đội chính quy của ta, thấy đường Thắng Lợi ta mở xuống đồng bằng, niềm tin của đại biểu với cách mạng, với ngày chiến thắng không còn xa. Kết thúc Đại hội, họ chia tay nhau trong lưu luyến, trong nước mắt hẹn ngày gặp mặt, và trao cho nhau những món quà lưu niệm. Các chiến sĩ Trường  Sơn tặng cho các đại biểu ở thành phố, đồng bằng những chiếc lược làm bằng vỏ đạn và thân xác máy bay giặc Mỹ và cả những chiếc đồng hồ Pon zot, còn các đại biểu thành phố và đồng bằng tặng cho các chiến sĩ Trường Sơn những chiếc khăn tay tự thêu những hình ảnh quê hương, đôi bồ câu hoà bình, họ còn trao cho nhau những chiếc đồng hồ Seiko, Orinet… 

Một Đại hội thành công hơn sự chuẩn bị và mong muốn. Đại hội được đón tiếp đồng chí Hoàng Văn Lai, Ủy viên Thường vụ Đặc khu ủy, Trưởng ban An ninh Đặc khu đến dự và phát biểu ý kiến chỉ đạo Đại hội; đồng chí đã thay mặt cấp ủy trao súng tượng trưng cho đại biểu tại Đại hội. Đại hội cũng đã phát động phong trào thi đua “Toàn Đoàn cầm súng, toàn Đội giết giặc”,  “Thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”…

Anh là con người của hành động và hành động một cách quyết liệt. Sau khi dự cuộc họp ngày 25-3-1975 của Ban Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà quán triệt chủ trương mở chiến dịch tổng tấn công, nổi dậy giải phóng Đà Nẵng, giải phóng Quảng Đà, anh về cơ quan quyết định tổ chức họp cán bộ Đặc khu Đoàn ngay sau đó để triển khai thực hiện chủ trương, ra chỉ thị khẩn chỉ đạo các tổ chức Đoàn trong toàn Đặc khu phải bám chắc sự chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, bám chắc diễn biến của tình hình, sẵn sàng tiếp nhận chủ trương, tổ chức mọi lực lượng của thế hệ trẻ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ góp phần to lớn giải phóng quê hương trong thời khắc lịch sử vinh quang sau này.

Anh đã chỉ đạo thành lập ngay Ban khởi nghĩa tại cơ quan Đặc khu Đoàn và phân công nhiệm vụ cho từng mũi công tác, giao trách nhiệm công việc chỉ đạo cho từng đồng chí: Đồng chí Nguyễn Thị Dọng, Vũ Đình Thuyết đi Hội An; đồng chí Dũng đi khu II Hòa Vang; đồng chí Trợ, đồng chí Bút, đồng chí Chí Hòa đi Điện Hòa, Điện Thọ, Điện An; khẩn trương tổ chức đường dây giao liên đưa cơ sở trong nội thành Đà Nẵng ra truyền đạt chủ trương, tập huấn chuẩn bị địa điểm sẵn sàng tiếp đón đưa cán bộ Đặc khu Đoàn vào nội thành.

Đồng chí Đức Hùng, Lê Ngọc Thủy, Ngô Minh Hà, ngay trong ngày 26-3-1975, theo đường dây giao liên hợp pháp vào Đà Nẵng chỉ đạo, tổ chức lực lượng bên trong may cờ, viết khẩu hiệu, chuẩn bị địa điểm đón tiếp cán bộ cơ quan Đặc khu Đoàn vào... Gần như 100% cán bộ cơ quan đều nhận lệnh sẵn sàng vào thành phố khi có yêu cầu, ngoài số đồng chí đang ở khu sản xuất ở xa hoặc đau ốm chưa thể đi đợt này, có vào cũng muộn hơn.

Đồng chí Lê Ngọc Thủy trước khi vào Đà Nẵng có đến Điện Hòa tại phái Nhất,  lúc đó tôi và đồng chí Nguyễn Hữu Bút đang ở đó, tôi đưa bộ quần áo hợp pháp của tôi cho đồng chí Thủy mặc vào thành phố (có áo sơ mi trắng). Đồng chí Thủy còn bảo tôi đưa cả cây súng K.59 cho đồng chí mang theo, tôi nói nguy hiểm, quả thật đồng chí vào Đà Nẵng đến quán cà phê góc đường Thống Nhất (Lê Duẩn và Lê Lợi bây giờ), gần trường Phan Châu Trinh thì gặp ngay toán lính ngụy thất trận, ô hợp ập đến lục soát lấy hết tiền, rất may đồng chí không mang súng.

Một bộ phận gồm đồng chí Nguyễn Hoài Trợ, Phạm Thị Thanh Xuân, Trần Thị Hồng Tiên... vào thành phố cùng với đoàn đồng chí Trần Văn Đáng, Phó Bí thư Đặc khu ủy phụ trách. Đồng chí Trương Công Trợ vào quận Nhất tham gia chỉ đạo cùng đồng chí Hoàng Tư Nghĩa, Ủy viên Thường vụ Quận ủy; đồng chí Trần Thị Thủy được điều động đi vào thành phố cùng đoàn đồng chí Phạm Đức Nam, Phó Bí thư Đặc khu ủy. Đồng chí Phan Văn Nghệ cũng đã đi vào thành phố khá sớm và nhanh chóng xâu lại các mũi công tác, bố trí  lực lượng, bám chặt các chốt điểm xung yếu của địch và khi có lệnh, họ đã đồng loạt hành động góp phần to lớn cùng các lực lượng cách mạng giải phóng Đà Nẵng ngày 29-3-1975.

Sau ngày giải phóng quê hương năm 1975, anh chuyển công tác về khối chính quyền, tôi về làm Bí thư Quận Đoàn quận Nhì Đà Nẵng, tôi không còn được may mắn làm việc cùng anh nữa, nhưng những gì tôi học được ở anh là hành trang giúp tôi trên bước đường công tác. Nay dù anh đã đi xa, nhưng những bài học của anh dạy tôi trong những ngày kháng chiến gian khổ ấy là những bài học thấm thía nhất, đáng quý và đáng trân trọng nhất mà tôi luôn tâm niệm.

Phạm Chí Hòa
Nguyên Bí thư Tỉnh Đoàn Quảng Nam – Đà Nẵng