Người anh hùng sống mãi tuổi 20

Cuối tháng 9-1968, Hoàng Kim Giao xung phong dẫn một đoàn công tác đặc biệt gồm 6 người trực tiếp vào chiến trường khu 4 để thực hành nghiên cứu cách tháo gỡ các loại bom từ trường của địch vừa ném xuống chiến trường, thu chiến lợi phẩm về nghiên cứu, đồng thời huấn luyện và hướng dẫn cho bộ đội, thanh niên xung phong các đơn vị, địa phương phá bom từ trường nổ chậm.

Đi cùng Hoàng Kim Giao hôm ấy có các anh Lưu Tuấn Kiệt, Lương Ngọc Tước, Phạm Văn Cư, Lương Văn Tín và một chiến sĩ tên là Thái. Những năm tháng đó, khu 4 được mệnh danh là tuyến lửaaaa với những nút giao thông quan trọng trở thành những trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ. Những địa danh như : Đồng Lộc, Ô Dước, Truông Bồn, Khe Tang, Khe Ve đã hằn sâu trong ký ức những người đã đi qua đó trong chiến tranh dù chỉ một lần về sự ác liệt và hủy diệt của bom đạn Mỹ. Trong lá thư cuối cùng gửi cho cha mẹ trước lúc hy sinh, anh Giao viết: >>>Những lúc đứng giữa cảnh chết chóc, hoang tàn đó, con nghĩ nhiều đến hạnh phúc gia đình, nghĩ tới ngày sum họp, nghĩ tới những ngày hòa bình và con ước mơ một ngày về gặp mặt cậu mợ và các emmmm. Nhưng ước mơ đó không thành hiện thực, Hoàng Kim Giao không bao giờ trở về nữa. Anh vĩnh viễn nằm lại nơi khúc ruột miền Trung...

Trong chuyến công tác cuối cùng đó, anh phá được 72 quả bom nổ chậm, trong đó có 40 quả bom từ trường...Đây là một đoạn thư chị Nguyễn Thị Lan, vợ liệt sĩ Hoàng Kim Giao gửi bố mẹ chồng ngày 8-3-1969 (sau ngày anh Giao hy sinh khoảng hơn 2 tháng): >>>Thưa cậu mợ, khi con vào đơn vị, đồng chí Khánh, thủ trưởng của anh Giao đã kể chuyện cho con nghe tình hình công tác và gương hy sinh của anh Giao...Khi đoàn đến Hà Tĩnh, địch thả bom chặn đường giao thông, 500 chiếc xe bị ứ đọng. Vì am hiểu kỹ thuật, anh Giao đã lên trên mặt đường một mình để phá bom. Lúc đó địch đến ném bom tiếp, anh đã di chuyển từ hố bom này sang hố bom khác cách nhau 10 mét. Bị sức ép nhiều lần nhưng anh vẫn tiếp tục phá được nhiều bommmmLợi dụng đêm sáng trăng, anh Giao đã tổ chức cho anh em phá bom đến 3 giờ sáng và giải phóng đoàn xe được đi an toànnnnnnn.

Chị Hoàng Liên Thái xúc động nhớ lại: >>>Nhận được giấy báo anh Giao hy sinh, cha mẹ tôi như suy sụp. Hai ông bà chở nhau về Trà Phương (Kiến Thụy) thăm 3 đứa con sơ tán tại đó. Các cụ chỉ động viên, cho quà rồi dặn dò chị em tôi ngoan ngoãn, cố gắng học tập mà không nói gì về chuyện anh Giao đã hy sinh vì sợ chúng tôi quá buồn đau. Sau đó hai cụ lặng lẽ chở nhau về Hải Phòng. Các cụ đi rồi, một cô giữ trẻ ở gần đó nói với chúng tôi: Bố mẹ các cháu rất buồn, các cháu không được làm điều gì khiến bố mẹ buồn hơn. Chúng tôi không hiểu và phải gặng hỏi mãi cô ấy mới nói sự thật. Ba chị em tôi dắt díu nhau đi bộ từ Kiến Thụy về Hải Phòng. Cả nhà lặng lẽ ôm nhau khóc.......

Cuối tháng 6-2005, có hai người phụ nữ tìm về xã Thủ Sĩ, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên hỏi đường vào nhà thượng úy, cựu chiến binh Phạm Văn Cư. Ông Cư đi vắng, chỉ có người vợ ở nhà. Khi hai người khách lạ tự giới thiệu là Hoàng Thị Kết và Hoàng Liên Thái, em gái của liệt sĩ Hoàng Kim Giao thì vợ ông Cư kêu lên mừng rỡ: Trời ơi, gần 40 năm rồi, nay mới có người nhà bác Giao tìm về. Chúng em luôn coi bác ấy là ân nhân của gia đình. Không có bác ấy thì em đã mất chồng, con cháu trong nhà cũng không được đề huề như ngày nay!....... Khi ở chiến trường trở về, anh Cư đã kể lại cho vợ con nghe chuyện bác Giao chết thayyyy mình như thế nào. Từ đó, gia đình anh Cư coi bác Giao là ân nhân và ngày giỗ tết đều thắp hương cho liệt sĩ Hoàng Kim Giao. Câu chuyện về cái chết của liệt sĩ Hoàng Kim Giao dần sáng tỏ qua lời kể của anh Cư và anh Tước, những đồng đội cùng đi với Hoàng Kim Giao trong chuyến công tác đó.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tháo gỡ và phá bom từ trường tại Quảng Bình và Hà Tĩnh, đoàn công tác đặc biệt của Hoàng Kim Giao được lệnh đưa những chiến lợi phẩm thu được của địch cùng khí tài trang bị trên xe chuyên dụng ra Hà Nội báo cáo kết quả. Ngày 29-12-1968, đoàn dừng chân nghỉ nhờ tại xã Nam Hưng, huyện Nam Đàn (tỉnh Nghệ An). Biết đây là đoàn chuyên gia phá bom từ trường trên đường về Hà Nội, chính quyền xã đề nghị đoàn giúp đỡ phá một số quả bom chưa nổ còn nằm địa phương để bảo đảm an toàn cho nhân dân. Hoàng Kim Giao đã nhận lời, động viên anh em và coi đó là nhiệm vụ đột xuất. Đêm cuối cùng ấy như có điềm lạ báo trước, anh Giao hầu như không ngủ, thức nói chuyện với anh Tước suốt đêm. Cứ mỗi lúc thấy anh Tước im lặng, anh Giao lại hỏi: Mày ngủ rồi hả em? Ngủ gì mà sớm thế?. Anh Giao nói nhiều về chuyện tình yêu, hạnh phúc, gia đình và những dự định cho tương lai khi đất nước hòa bình...Mãi gần sáng, anh Tước mới thiếp đi, khi tỉnh dậy đã thấy anh Giao chuẩn bị bộc phá và dây cháy chậm cho trận đánh. Đã hàng trăm lần cùng nhau tháo gỡ bom từ trường nhưng chưa lần nào anh Giao lại dặn dò đồng đội tỷ mỷ và xúc động đến thế. Không ai bảo ai nhưng tất cả đều hiểu rằng mỗi lần vào trận đánh là mỗi lần họ phải trực tiếp đối mặt với tử thần, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Bởi loại bom này khi đã rời khỏi máy bay đều có chế độ tự hủy (nếu không bị kích nổ bởi từ trường thì chúng sẽ tự nổ không theo một quy luật nào).

Đúng 7 giờ 30 phút sáng 30-12-1968, cả đoàn xuất phát, chia làm hai nhóm, mỗi nhóm 3 người. Họ chỉ mặc đồ lót, trên người không một mảnh nhỏ kim loại, đó là nguyên tắc sống còn khi tiếp xúc với thứ vũ khí giết người nguy hiểm này. Theo kế hoạch, 2 nhóm cùng vào trận để tháo ngòi nổ của hai quả bom từ trường nằm cách nhau khoảng 700 mét. Nhóm thứ nhất do anh Giao trực tiếp phụ trách có hai chiến sĩ là Phạm Văn Cư và Lương Văn Tín sẽ tháo ngòi nổ của một quả bom từ trường nằm trên sườn đồi Khe Diêm, sát quốc lộ 15. Quả bom cỡ lớn chứa gần 300kg thuốc nổ cực mạnh cắm sâu trong lòng đất, chỉ còn hở phần đuôi. Muốn tháo ngòi nổ, các chiến sĩ phải dùng bộc phá loại nhỏ đánh bật đất đá chung quanh. Đánh xong mỗi quả, lại phải dùng tay không để bới đất đá cho tới khi nào lộ cái phíchhhh trung gian nối giữa đầu điều khiển và đầu nổ, rồi tháo phíchhhh để vô hiệu hóa chúng. Chỉ cần một sơ suất nhỏ cũng có thể làm bom phát nổ, hậu quả thật khôn lường...Khi chuẩn bị đánh bộc phá, anh Giao nói với anh Cư: Hôm nay để anh trực tiếp thao tác vì anh có kinh nghiệm, nên yên tâm hơn, chú xuống cảnh giới cùng thằng Tín đi. Anh Cư không chịu bảo: Anh là kỹ sư, trưởng đoàn, còn em chỉ là chiến sĩ...Nếu phải hy sinh thì nên thí tốt chứ đừng bỏ xe. Anh Giao mắng át đi: Tính mạng con người ai chả như nhau. Nhưng anh chưa có con cái vướng bận gì. Nghe nói vợ chú vừa sinh con trai phải không? Chú xuống đi để sau này cháu còn nhìn thấy mặt bố. Anh ra lệnh đó. Đợi anh Cư xuống tới vị trí an toàn, anh Giao cho nổ bộc phá đầu tiên, rồi một mình hì hục bới đất chung quanh thân bom. 3 quả bộc phá đã đánh xong, bới hết đất mà cái phích trung gian vẫn chưa hiện ra. Tới khi anh Giao gọi mang quả bộc phá thứ 4 lên thì anh Tín bảo với anh Cư: Em theo các anh đánh bom mấy tháng rồi mà chưa được trực tiếp trận nào. Anh cho em mang bộc phá và dây cháy chậm lên cho anh Giao rồi ngó xem mặt mũi nó thế nào, sau này hòa bình về quê còn có chuyện mà kể với bạn bè chứ. Anh Tín là lái xe của Bộ Tư lệnh 500 đi phối hợp, không thuộc quân số của Viện Kỹ thuật quân sự, anh nhập ngũ chưa lâu, mới qua tuổi 18, người cao to, trắng trẻo, rất đẹp trai quê ở An Dục, Quỳnh Phụ (Thái Bình). Thấy Tín năn nỉ mãi, nể quá nên anh Cư gật đầu đồng ý. Anh hồi hộp nhìn theo cái dáng hớn hở của anh Tín cầm gói bộc phá lúi húi chạy lên sườn đồi khuất sau mấy bụi sim mua....Bỗng một tia chớp lửa nhoàng lên, rồi tiếng nổ rung chuyển mặt đất, bầu không khí tối sầm bởi lửa khói, bụi và đất đá rơi ào ào. Anh Cư bị sức ép hất ngã, hai tai ù đặc. Anh bật dậy, vừa chạy ngược lên đồi vừa gào trong nước mắt: Anh Giao ơi! Tín ơi......, trước mắt anh chỉ còn là một cái hố bom rộng và sâu hoắm. Tại tổ phá bom thứ hai, sau khi nghe tiếng nổ lớn từ phía đồng đội và 4 tiếng súng báo hiệu tử vong, ba anh Tước, Thái và Kiệt bỏ dở công việc chạy lại thấy anh Cư mặt mũi nhem nhuốc mếu máo: Anh Giao và thằng Tín hy sinh rồi!. Tất cả đều không cầm được nước mắt...

Buổi trưa hôm đó, chính quyền xã Nam Hưng cử một trung đội dân quân lên khu vực bom nổ làm nhiệm vụ thu gom thi thể 2 liệt sĩ. Họ phải vạch từng bụi sim, mua nhẹ nhàng bới từng nắm đất, nhưng cố gắng hết mức cũng chỉ tìm lại được chừng một kg thi thể, không thể nhận biết đâu là Hoàng Kim Giao, đâu là Lương Văn Tín, họ đành chia thành hai gói nhỏ, đặt vào hai chiếc quan tài và mai táng theo phong tục địa phương. Đám tang của 2 liệt sĩ được tổ chức vào lúc gần nửa đêm. Hai ngôi mộ cùng nằm trên ngọn đồi cao lộng gió...

Trong dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam vừa rồi, chị Hoàng Kim Thái, em gái liệt sĩ Hoàng Kim Giao vào Nghệ An thăm mộ anh trai. Chiều tối 29-4, chị thắp nén hương khấn vái, bó hương trên đài cao bỗng bùng lên ngọn lửa dù lúc ấy trời lặng gió...Chưa hết sững sờ thì chị lại thấy một cánh bướm nâu từ đâu bay đến đậu trên vai, dùng tay phẩy đuổi con bướm đó cũng không chịu bay mà cứ lượn vòng quanh bia mộ. Ngạc nhiên hơn, ngày hôm sau, khi về tới Hải Phòng, chị Thái bàng hoàng khi thấy cánh bướm nâu ở nghĩa trang Nam Đàn đang đậu trên tấm Huân chương của liệt sĩ Hoàng Kim Giao. 4 ngày sau, con bướm chết trên bàn thờ dưới bức ảnh cụ Hoàng Văn Luận-thân sinh của liệt sĩ Hoàng Kim Giao...Khi chị Hoàng Liên Thái trở lại hố bom năm xưa giờ chỉ còn là một cái vũng nông choèn nằm trên đồi sim mua, ở trên miệng vũng có hai cây si xanh rì...Chị Thái lấy một nắm đất ở hố bom mang về Hải Phòng rải lên mộ bố mẹ một ít, còn một ít đem thả xuống biển. Chị nghĩ làm như vậy sẽ giúp anh Giao gần với quê hương hơn...

Chúng ta chỉ là hạt cát trong bãi sa mạc mênh mông nhưng khi đặt kính soi thì từng hạt cát đó phải là những hạt kim cương quý giá, hãy sống như thế, cuộc sống như thế mới đáng sống, mới là hạnh phúc thực sự của chúng ta. (thư anh Giao viết gửi vợ ngày 12/9/1964). Thân xác anh đã tan vào đất mẹ nhưng cuộc sống và sự hy sinh của anh mãi lấp lánh như hạt kim cương quý giá. Sau 27 năm say mê học tập, chiến đấu và cống hiến, giờ anh đang thanh thản yên nghỉ trong ngôi mộ số 326 ở nghĩa trang Nam Đàn (Nghệ An) bên cạnh những người đồng đội thân yêu.

Thanh Thủy