Theo PGS.TS.BS Lê Hồng Quang, Trưởng khoa Ngoại Vú, Bệnh viện K, đối với khu vực Âu Mỹ tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh ung thư vú cao nhất là ở tuổi 55-60 trở lên, nhưng tại Việt Nam gặp rất nhiều ở lứa tuổi 40. Thậm chí trong quá trình làm chuyên môn bác sĩ Quang từng gặp những trường hợp sinh viên ngoài 20 tuổi đã mắc ung thư vú.
Tại Việt Nam, theo thống kê của Tổ chức Ghi nhận Ung thư toàn cầu (GLOBOCAN 2020), ung thư vú là căn bệnh ung thư thường gặp nhất với 21.555 ca mắc mới, chiếm tỷ lệ gần 25,8% tổng số ca ung thư.
Ung thư vú thường xuất hiện với triệu chứng là có u cục ở tuyến vú, thông thường khi những u cục mới xuất hiện thường không gây đau, nên bệnh nhân dễ chủ quan. Khối u thường phát triển âm thầm, tăng dần theo thời gian, đến một kích cỡ nhất định bệnh nhân mới lo lắng và đến khám.
Bên cạnh đó cũng xuất hiện với tình huống là xuất hiện hạch ở vùng nách, loét đầu núm vú, chảy dịch đầu vú.
Các bác sĩ tiến hành phẫu thuật cho bệnh nhân. Ảnh: BVCC |
Bác sĩ Quang cho biết nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ của ung thư vú rất đa dạng. Cụ thể gồm:
Các yếu tố về tuổi: khi cơ thể càng cao tuổi thì quá trình sửa chữa về đột biến, thương tổn kém đi gây phát sinh ung thư.
Các yếu tố nguy cơ về di truyền: nếu gia đình có mẹ, chị em gái, dì ruột đã bị ung thư vú, thì người phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú rất cao.
Các yếu tố nguyên nhân về nội tiết: những người phụ nữ lấy chồng, sinh con muộn hoặc không sinh đẻ thì cũng có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn.
Ngoài ra còn các yêu tố nguy cơ khác như: có lối sống Âu hóa, ít vận động thể lực cũng được ghi nhận làm tăng tỷ lệ ung thư vú.
Phụ nữ qua độ tuổi mãn kinh dùng thuốc nội tiết tố thay thế có thời gian kéo dài cũng cần lưu ý các biện pháp phát hiện ung thư sớm.