Ngô Phú - Một đời dấn thân theo Đảng

Còn nhớ, năm 2000, tôi được phân công gặp gỡ các cán bộ lão thành cách mạng từng lãnh đạo cướp chính quyền tại Hòa Vang và Đà Nẵng để lấy thông tin cho tập sách về Cách mạng Tháng Tám. Khi nghe tôi hỏi đến “ông Phú”, một cụ nói: “Rứa định hỏi Phú đen hay Phú bạch?”.

Còn nhớ, năm 2000, tôi được phân công gặp gỡ các cán bộ lão thành cách mạng từng lãnh đạo cướp chính quyền tại Hòa Vang và Đà Nẵng để lấy thông tin cho tập sách về Cách mạng Tháng Tám. Khi nghe tôi hỏi đến “ông Phú”, một cụ nói: “Rứa định hỏi Phú đen hay Phú bạch?”.

Từ quê lụa Thi Lai đến “Nam Kỳ khởi nghĩa”

Ông Phú cùng bà Yến trong lễ mừng thượng thọ năm 2005.

Khi gặp cụ Ngô Phú, tôi mới vỡ lẽ vì sao khi cướp chính quyền tại Hòa Vang lại có đến hai ông Phú: Phú đen và Phú trắng (tức Bạch).

Gia đình ông Phú  làm nghề dâu tằm, chuyên ươm tơ, dệt lụa tại làng Thi Lai, cạnh quê lụa Mã Châu của huyện Duy Xuyên ấy. Trong những năm 1930-1935, nghề tơ tằm phát triển mạnh, cha ông có giao dịch làm ăn buôn bán với các Hoa kiều tại Sài Gòn - Chợ Lớn, được họ bỏ tiền ra để ông làm đại lý mua bán tơ, lụa và chuyển vào Sài Gòn.
 
Năm 1937, sau khi được kết nạp vào Đảng, ông được tổ chức phân công làm công tác tuyên truyền cho anh em thanh niên ươm tơ, dệt lụa tại Thi Lai, Mã Châu… Năm 1940, được phân công làm kinh tài cho Đảng, ông chuyên mua tơ lụa chuyển vào Sài Gòn để lấy hoa hồng nộp cho Đảng. Thời gian này, ông gặp anh Nguyễn Thành Mông - Xứ ủy Sài Gòn-Gia Định, anh Nguyễn Soạn - người Đại Lộc, Quảng Nam và được các anh đưa đi nghe chị Nguyễn Thị Minh Khai nói chuyện nhiều lần. Họ đã cùng tổ chức ra 2 tổ tài chính tại Sài Gòn. Tháng 10-1940, sự kiện “Nam Kỳ khởi nghĩa” nổ ra, nhiều đồng chí hoạt động cách mạng tại Sài Gòn bị bắt bớ, tù đày, ông phải lánh về quê và tiếp tục hoạt động trong chi bộ Đảng tại Duy Đông (Duy Xuyên).

Để chuẩn bị cướp chính quyền, ông Phú được Tỉnh ủy điều về phụ trách cướp chính quyền tại huyện Hòa Vang, do lúc này có 2 người tên Phú, nên Tỉnh ủy đặt tên cho ông là Bạch (tức Phú trắng), Phú đen là Minh (tức Nguyễn Hồng Minh).

 Ông Phú nhớ lại: Tôi ra Hòa Vang cùng hai đồng chí tự vệ, khi đến Trảng Nhật (Thanh Quýt) thì bị bọn Nhật tại đây bắt giữ. Chúng lục trong người tôi có dao găm nên bắt tôi đứng sát vào tường, rồi dùng dao phóng cắm phập hai bên hòng dọa có phải là Việt Minh không.

Biết tin ấy, Tỉnh ủy cử anh Đỗ Xuân, người biết tiếng Nhật đi đến cùng một đoàn người, giải thoát cho tôi. Đồng chí Nguyễn Thúy và Nguyễn Xuân Nhĩ - Thường vụ Tỉnh ủy phân công tôi vào Ban Thường vụ, lãnh đạo cướp chính quyền tại Hòa Vang cùng các anh Nguyễn Như Gia, Nguyễn Hữu Tú… Tôi phụ trách việc viết các chỉ thị gửi về các tổng và xã, chỉ đạo việc cướp chính quyền tại Hòa Vang.

Một lòng lo làm kinh tài cho Đảng

Cuộc đời ông Phú dường như gắn mãi với nhiệm vụ “làm kinh tài cho Đảng”. Sau khi cướp chính quyền, ông hoạt động trong Ban Tài mậu tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng cùng đồng chí Bùi Công Trọng, sau đó tiếp tục làm trong Ban Tài mậu của Liên khu 5. Bà Lê Thị Yến - vợ ông nhớ lại: “Tôi biết ông ấy khi ổng đang làm cho Tài mậu của tỉnh, tôi là cán bộ phụ nữ của Hội An. Năm 1949, Tỉnh ủy đứng ra tổ chức cho 4 cặp vợ chồng, trong đó có vợ chồng tôi và các cặp vợ chồng: anh Nguyễn Hữu Mỹ cùng chị Lê Thị Xuyên, anh Nguyễn Mạnh (tức Thắng) và chị Phạm Bích Dung, anh Trần Hồng và chị Lê Thị Lạc. Đó là một trong những đám cưới hiếm hoi do Tỉnh ủy chủ trì trong kháng chiến chống Pháp tại khu tháp đôi Chiên Đàn!”.

Năm 1954, ông Phú tập kết ra Bắc và tiếp tục “nhiệm vụ kinh tài” của mình. Từ năm 1965 đến năm 1975, ông là Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình, Phó Chủ tịch phụ trách Công nghiệp và Giao thông-Vận tải, giữ vai trò quan trọng trong việc điều hành Nhà máy nhiệt điện Ninh Bình đặt tại hang đá Cánh Diều, nối vào đường dây 35kV của Trung ương, cùng Nhà máy điện Uông Bí cung cấp điện, phát triển kinh tế đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Ông đã nghiên cứu, đề xuất ra một dây chuyền khai thác, sản xuất khép kín bằng cơ giới liên hoàn trong việc xay nghiền đá, nung vôi làm đường phục vụ chiến trường miền Nam và nhất là khôi phục lại tuyến đường sắt Bắc-Nam đến các công trình khai thác đá, clinke trong sản xuất xi-măng, vôi phục vụ xây dựng miền Bắc.

Sau năm 1975, ông Phú về lại quê nhà, được bổ sung vào Tỉnh ủy, giữ chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Những năm đó, ông cùng các ông Lê Đào, Trần Đình Đạm bám ngày đêm tại “đại công trình thủy lợi Phú Ninh”; say mê nghiên cứu việc phục hồi và phát triển ngành trồng dâu nuôi tằm; nhân rộng mô hình trồng nấm cho các địa phương (hồi đó, căn nhà của ông và chỗ trụ sở làm việc số 32 Hoàng Diệu là nơi trồng và thử nghiệm nấm để cung cấp cho các địa phương trong tỉnh!). Anh hùng Lao động Lưu Ban - người cùng quê với ông, đã từng kể với tôi rằng:

“Thủy điện Duy Sơn của chúng tôi vang bóng một thời, có phần đóng góp không nhỏ bởi sự động viên, vận động Trung ương giúp đỡ của đồng chí Ngô Phú!”. Mãi sau này, khi đã về hưu, ông Phú vẫn miệt mài nghiên cứu dâu tằm và làm nấm, mặc dù nghề trồng dâu nuôi tằm đã thoái trào từ lâu. Theo ông, điều kiện của Quảng Nam và Đà Nẵng rất phù hợp với việc trồng nấm và trồng dâu nuôi tằm, ông tin rằng trước sau gì ngành trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa trên quê hương ông cũng sẽ phục hồi, phát triển trở lại. Từ những nghiên cứu, mày mò của ông Phú ngày xưa ấy, đến  nay, nhiều mô hình trồng nấm điển hình như Võ Đấu tại Hòa Sơn (Hòa Vang), Nguyễn Thành tại huyện Duy Xuyên, Quảng Nam đã ăn nên làm ra, được Truyền hình Việt Nam giới thiệu nhiều lần.

Năm 2007, ông Phú được trao tặng Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, đây là một trong những đảng viên ít ỏi tại Đà Nẵng nhận được vinh dự này. Tuy đã tuổi cao sức yếu, ông vẫn thường xuyên sinh hoạt Đảng, bởi theo ông: “Mình còn đủ sức khỏe thì đi họp, thông qua các cuộc họp để có thêm nhiều thông tin về tình hình chính trị, thời sự trong nước. Nếu có được chút ý kiến gì hay thì nên đóng góp để Đảng ngày một mạnh hơn!”. Mấy tháng gần đây, người dân tại phường Thạch Thang không còn thấy cảnh ông cụ đã 90 tuổi chở một bà cụ cũng hom hem rong ruổi khắp Đà Nẵng bằng xe đạp điện, để ăn sáng hoặc vãn cảnh, trông rất tình tứ. Đó chính là hình ảnh cuối cùng của ông Phú bên người vợ thân thương của mình.

Ông đã ngã bệnh, đã sống những ngày cuối đời tại Bệnh viện C Đà Nẵng trong vòng tay của người thân. Nhiều bà con thân quyến, nhiều bạn bè, đồng chí khắp nơi nghe tin ông ốm nặng đều gọi điện hỏi thăm hoặc đến thăm, thầm mong ông qua khỏi cơn bạo bệnh. Nhưng ông đã ra đi vào ngày 13-10-2009, để lại nhiều tiếc thương cho những người đã từng yêu quý ông, cho gia đình, bạn bè, đồng chí.

Ghi chép của LƯU ANH RÔ