“Điểm nhấn” trên đường xuân
Để thăm đất Quảng Uyên, bắt buộc phải ghé TP Cao Bằng và đi theo đường số 3. Vượt quãng đường gần 40km qua đèo Mã Phục, trong tiết trời se lạnh, xe chúng tôi leo lên đèo. Đường dốc quanh co, ngoằn ngoèo, một bên là núi, một bên là vực sâu thăm thẳm, sương mù trắng xóa bao phủ làm con đèo tựa như dải lụa mỏng bồng bềnh trôi trong mây.
Nghe nói, đèo Mã Phục dài 3,5km, cao khoảng 700m so với mực nước biển. Đèo quanh co, uốn lượn. Từ chân đèo lên đến đỉnh tính ra có đến 7 tầng dốc gấp khúc. Người trong vùng thường bảo, không một con đèo nào lại đặc biệt như đèo Mã Phục. Ngoài địa thế là thông lộ độc đạo, cửa ngõ đi các huyện phía đông của Cao Bằng (gồm Trùng Khánh, Quảng Uyên, Phục Hòa, Hạ Lang, Trà Lĩnh - PV) thì nơi đây lại càng “lạ” hơn bởi câu chuyện gắn với thủ lĩnh Nùng Chí Cao.
Tích xưa kể lại rằng, giữa thế kỷ XI có chàng trai người Tày tên là Nùng Chí Cao, con của một thủ lĩnh địa phương vốn rất tài giỏi. Khi giặc phương Bắc kéo xuống xâm lược bờ cõi, Nùng Chí Cao đã lãnh đạo nhân dân đứng lên dẹp giặc cứu nước, trả lại sự bình yên cho nhân dân vùng biên Đông Bắc. Khi bờ cõi được yên ổn, Nùng Chí Cao trong lần cưỡi ngựa đi tuần tra biên giới phía Bắc trở về đã băng qua một thung lũng rộng lớn. Khi Cao đến giữa thung lũng thì ở phía những đỉnh núi lại xuất hiện tiên vẫy gọi, nhưng chàng không vì thế mà dừng ngựa.
Về đến địa phận thuộc xã Quốc Toản ngày nay thì Nùng Chí Cao gặp con đèo cao quanh co, dốc đứng án ngữ trước mặt. Chiến mã của Cao không thể đi tiếp được nữa liền khụy xuống. Cái tên đèo Mã Phục (ngựa quỳ) có từ đó. Riêng thung lũng nơi có tiên vẫy gọi Nùng Chí Cao được dân đặt tên là Lũng Riệc (nghĩa là thung lũng vẫy gọi), còn vùng dưới chân đèo Mã Phục được gọi là Lũng Rặp (thung lũng đón tiếp người anh hùng trở về).
Không rõ câu chuyện về Nùng Chí Cao mà người dân thường kể đúng bao nhiêu phần, duy có điều chắc chắn rằng, nay khu vực này đã trở nên sầm uất hơn hẳn 5 năm trước. Đỉnh đèo trở thành nơi họp chợ, trung tâm buôn bán sầm uất của cả khu vực. Chợ thường họp vào các ngày mùng 3, 8, 13, 18, 23 và 28. Nhắc chuyện này, một người dân trong vùng bảo, tuy chợ không được khang trang như những nơi khác nhưng hễ đến phiên, khách du lịch ngoài việc ghé thăm để đáp ứng thú mua thổ sản làm quà còn được nghe tường tận về Nùng Chí Cao, về huyền tích quanh đèo Mã Phục bên chén rượu ngô đãi khách thơm nồng.
Làm giàu từ nghề thủ công truyền thống
Có một chuyện “lạ” không giống với những vùng miền khác mà người viết ghi nhận được ở Quảng Uyên là, hầu hết các làng nghề thủ công truyền thống đều tập trung theo từng nhóm dân tộc. Chẳng hạn, làng nghề rèn sắt, đúc gang, trồng bông dệt vải thì ở Phúc Sen; làm ngói máng, đan lát mây tre ở Canh Man (Chí Thảo), Lũng Rì, Lũng Cát (Tự Do); đan nón lá ở Lạc Diễn (Hồng Định), Bản Phảng (Tự Do); nghề làm giấy dó tại Lũng Rì, Lũng Ỏ (Tự Do); làm hương tại Phja Thắp (Quốc Dân). Và mỗi sản phẩm ở những nơi đó lại thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo riêng của mỗi dân tộc.
Minh chứng dễ thấy nhất là làng làm hương Phja Thắp của người Nùng an ở xã Quốc Dân. Ở Phja Thắp tất thảy chỉ vỏn vẹn 51 hộ dân nhưng các nhà đều tham gia vào các khâu đoạn làm hương. Thời điểm này, người dân Phja Thắp đang hối hả làm hương phục vụ nhu cầu dịp lễ, tết. Bước chân qua cổng làng, chúng tôi cảm nhận ngay được mùi hương thơm ngạt ngào, thanh tao lan tỏa khắp không gian.
Khi hỏi về lịch sử của nghề truyền thống làm hương trầm, người dân lại cho rằng nghề này không hề có “tổ làng”. Chính anh Hoàng Văn Lập, Trưởng xóm Phja Thắp cũng khẳng định với chúng tôi như vậy. “Nghề làm hương ở Phja Thắp đã có gốc gác lâu lắm rồi. Từ đời ông, cha đã thấy có nghề này rồi. Không biết ai là người đầu tiên đem nghề về làng đâu. Cứ đời nọ tiếp nối đời kia, người biết nghề dạy cho người không biết nghề. Vì thế, ngôi làng với hơn 50 hộ dân này ai cũng làm hương thành thục”, anh Lập kể.
Từ đầu đến cuối làng, chúng tôi được đi qua các “lò” hương do anh Lập giới thiệu. Nguyên liệu làm nên những que hương ở Phja Thắp hoàn toàn tự nhiên từ cây Thông Mộc, Trầm Hương, Que Mai… Sản phẩm hương trầm Phja Thắp làm ra được tiêu thụ khắp các chốn chợ phiên trong tỉnh. Nhờ làm hương, các hộ gia đình gia đình trong vùng cũng có kinh tế ổn định hơn nhiều địa phương khác. Ngay như gia đình anh Lập, thu nhập nghề mang lại đã giúp anh sắm được xe ôtô để vận chuyển hàng tận Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang.
Tiếp tục hành trình, tôi lại ngược đường tìm đến xã Phúc Sen. Phúc Sen được khắp gần xa Cao Bằng biết đến là nơi triển khai thành công chủ trương “3 nhiều” (gồm trồng nhiều cây, nuôi nhiều con, làm nhiều nghề - PV) giúp đánh đuổi “bóng ma” đói nghèo. Theo đó, bình quân lương thực đầu người của xã đạt trên 725kg/năm; thu nhập bình quân đầu người đạt trên 22 triệu đồng/năm; 15% hộ có thu nhập mức khá, giàu; tỷ lệ hộ nghèo còn 6,9%, trung bình giảm 4 - 5%/năm.
Ông Hoàng Văn Sậu, Trưởng xóm Lũng Vài hồ hởi cho biết, Tết xong, người dân bắt tay vào gieo đỗ tương, ngô, mạch hoa; tháng 5, tháng 6 tập trung cấy lúa mùa; tháng 8, tháng 9 trồng ngô, khoai lang, đỗ tương; mùa thu và cuối năm trồng các loại rau màu. Ngoài việc luân canh gối vụ, nông dân chúng tôi còn trồng xen canh các loại cây ngô, sắn, bí, đậu, củ cải cung cấp cho thị trường; tạo việc làm, tăng thu nhập. Đối với những diện tích đất canh tác thiếu nước vào mùa khô, dân nghĩ ra cách đào hố lót ni lon dự trữ nước tưới. Vì vậy, Lũng Vài được biết đến là vùng đất trồng được nhiều rau màu nhất xã, trong đó có nhiều loại rau màu đã trở thành hàng hóa, mang lại thu nhập cao cho người dân địa phương.
Chưa dừng lại ở đó, hiện các ngành nghề truyền thống của Phúc Sen như: rèn, dệt vải, đan lát… đặc biệt được chú trọng phát triển. Nói riêng về nghề rèn, theo nhẩm tính cả xã hiện có hơn 157 lò rèn, 2 hợp tác xã rèn, hàng năm sản xuất hàng vạn nông cụ. Ngay như “xóm công nghiệp không khói” Pác Rằng có 60 hộ, ngoài làm nông nghiệp, du lịch, thì 100% hộ đều gắn bó nghề rèn truyền thống.
Anh Long Văn Minh, chủ một lò rèn có kinh nghiệm nhẩm tính, nếu trung bình mỗi lò sản xuất được 8 sản phẩm/ngày, với giá bán lẻ từ 100 - 150 nghìn đồng/sản phẩm, trừ chi phí, mỗi lò thu về trên 300 nghìn đồng/ngày. Mức thu nhập này đủ để những người làm nghề “sống khỏe” và làm giàu. Theo tìm hiểu, hiện các sản phẩm rèn của Phúc Sen đã có mặt tại các thị trường trong và ngoài tỉnh, được người tiêu dùng lựa chọn vì giá thành hợp lý, độ bền cao.
Trong hương xuân xen lẫn lời thơ dặt dìu “Mời anh lên Cao Bằng quê em, lên đèo Khau Liêu qua đèo Mã Phục, vượt qua rừng vầu, xuyên qua rừng trúc, như bầy ong, như bầy chim...” đã được phổ thành ca khúc của nhà thơ Y Phương, người viết như được trải nghiệm “ngày mới” trên đất Quảng Uyên. Chợt nghĩ, phải chăng chính sự táo bạo giữ nghề truyền thống trong guồng quay hiện đại đã và đang giúp vùng quê nghèo nơi núi đá này khởi sắc, đánh đuổi đói nghèo? Như thấu được khúc mắc của tôi, một một cán bộ địa phương cười giảng giải: “Để góp phần bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống, muốn giới thiệu rộng rãi đòi hỏi sản phẩm làm ra phải có thương thiệu làng nghề”…