“Vụ án vườn mít” kéo dài gần 8 năm, với nhiều lần trả hồ sơ nhưng cơ quan tố tụng tỉnh Bình Phước hầu như không bổ sung được chứng cứ mới mang tính quyết định để buộc tội Lê Bá Mai.
Theo lịch xét xử, ngày 19-6, TAND Tối cao tại TPHCM sẽ mở phiên tòa lưu động tại tỉnh Bình Phước, xét xử phúc thẩm đối với Lê Bá Mai (30 tuổi, ngụ tỉnh Bình Phước) về tội “Giết người”, “Hiếp dâm trẻ em”. Trước đó, chiều 18-5, Công an tỉnh Bình Phước đã thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với bị cáo Lê Bá Mai theo yêu cầu của Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TPHCM nhằm đảm bảo cho việc xét xử.
Đây là vụ án xảy ra từ năm 2004 (còn gọi là vụ án “vườn mít”), được xem là “kỳ án” khi quan điểm truy tố, xét xử của các cơ quan tố tụng trái ngược nhau. Vụ án chủ yếu chỉ dựa vào 2 nguồn lời khai (nhân chứng và bị cáo) mà không có chứng cứ vật chất nào để buộc tội Lê Bá Mai.
Bị bắt từ một lời khai không chắc chắn
Theo nội dung vụ án, khoảng 8 giờ ngày 12-11-2004, cháu Thị Hằng (SN 1995) và cháu Thị Út (SN 1993) đi mót củ sắn tại bãi đất trống. Đến tối cùng ngày, do không thấy Út về nên gia đình đi tìm. Ngày 16-11-2004, phát hiện xác Út ở vườn mít nhà ông ông Dương Bá Tuân. Theo lời kể của Hằng, có một thanh niên mặc áo xanh, quần đen, đội nón lá, đi xe máy màu xanh, trên xe có chở một bình xịt thuốc rầy màu xanh loại 14 lít đến 16 lít, một thùng đựng đá màu đỏ treo ở tay lái xe máy, đã chở Út đi. Từ đây mọi người trong gia đình nghi Lê Bá Mai- người làm công cho Tuân nên báo công an. Ngày 17-11-2004, Mai bị bắt.
Quá trình điều tra, CQĐT tỉnh Bình Phước kết luận: ngày 12-1-2004, Mai rủ cháu Út vào vườn mít chơi. Tại đây, Mai dụ dỗ cháu Út cho thực hiện hành vi giao cấu. Do cháu Út chống cự, Mai đã đánh cháu Út ngất xỉu sau đó thực hiện hành vi giao cấu. Sợ vụ việc vỡ lở, Mai đã lấy chiếc quần dài của Út xiết cổ cô bé đến chết.
Quan điểm cơ quan tố tụng trái ngược nhau
Ngày 16-3-2005, TAND tỉnh Bình Phước xét xử và tuyên tử hình Lê Bá Mai về tội “Giết người” và “Hiếp dâm trẻ em”. Ngày 4-8-2005, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TPHCM xét xử đã tuyên giữ nguyên án tử hình. Ngày 12-12-2006, Viện trưởng VKSND Tối cao có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm hủy 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm với lý do: “Chưa có căn cứ vững chắc” và có nhiều vi phạm trong quá trình điều tra vụ án, thiếu sót trong việc khám nghiệm hiện trường, thu thập chứng cứ... Ngày 5-2-2007, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị, hủy 2 bản án để điều tra lại theo quy định pháp luật. Cùng quan điểm Hội đồng Thẩm phán đã tuyên hủy bản án phúc thẩm.
Tháng 7-2010, TAND tỉnh Bình Phước xử sơ thẩm lần 2 trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng VKSND tỉnh Bình Phước vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Ngày 18-5-2011, TAND tỉnh Bình Phước mở phiên xử sơ thẩm lần 3 và tuyên Lê Bá Mai không phạm tội, trả tự do ngay tại phiên tòa. Tuy nhiên, giữa tháng 6-2011, Viện trưởng VKSND tỉnh Bình Phước ra quyết định kháng nghị yêu cầu Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TPHCM xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm để tuyên bố bị cáo Lê Bá Mai phạm tội “Giết người” và “Hiếp dâm trẻ em”.
Gần một năm quyết định kháng nghị được ban hành nhưng vụ án chưa được đưa ra xét xử phúc thẩm, Ngày 20-4-2012, ông Lê Bá Triệu (cha ruột Lê Bá Mai, quê Thanh Hóa) đã có văn bản gửi Chánh án TAND Tối cao cùng một số cơ quan chức năng khiếu nại về việc chậm đưa vụ án Lê Bá Mai ra xét xử phúc thẩm khiến vụ án tiếp tục kéo dài, số phận Mai bị “treo” lơ lửng, làm tăng phần thiệt hại cho gia đình và bản thân Mai.
Tuyên không phạm tội là phù hợp Theo ý kiến của nhiều luật sư, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc các CQĐT, VKSND. Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, nếu không chứng minh được bị can, bị cáo phạm tội thì phải áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội, tuyên bị cáo vô tội và phải trả tự do cho họ. Vậy nên, với những lời khai, những chứng cứ chưa mang tính thuyết phục và chứa đựng sự mâu thuẫn nội tại… không đủ để chứng minh và kết luận Lê Bá Mai phạm tội thì việc cấp sơ thẩm TAND tỉnh Bình Phước tuyên Mai không phạm tội là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và mang đậm tính nhân văn. Không phải cứ tuân thủ cứng nhắc việc bảo lưu quan điểm truy tố mới chứng minh được tính chuyên nghiệp của công tác điều tra, truy tố. Ngược lại, trước số phận pháp lý của một con người, cần phải nhìn nhận một cách khách quan, độc lập và toàn diện. |
Theo NLĐ