Nguồn tư liệu cổ xưa kể lại rằng: Năm 623 TCN, tại vườn Lâm Tỳ Ni gần thành Ca Tỳ La Vệ (hiện nay là vùng biên giới giữa Nepal và Ấn Độ), Đức Phật Thích Ca đã giáng sinh có tên là Tất Đạt Đa, là một vị Thái tử con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da đang trị vì một vương quốc nhỏ của bộ tộc Thích Ca.
Ngay lúc sinh ra, Thái Tử đã có đầy đủ hảo tướng, 1 tay chỉ lên trời, 1 tay hướng xuống đất. Các nhà tiên tri cho rằng Thái Tử sẽ trở thành hoặc một đại đế hay một bậc giác ngộ. Vua cha Tịnh Phạn không muốn con đi tu nên dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, nhất là không để cho tiếp xúc với cảnh khổ, bao bọc Thái Tử trong cung vàng điện ngọc, cho kết hôn với công chúa Da-du-đà-la.
Năm lên mười, nhân ngày lễ Tịch Điền, Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Thay vì vui với ảnh xuân, Thái Tử nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua.
Ngài thấy người nông phu và trâu bò phải làm việc cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Khi những luống đất lật lên, lộ giun dế côn trùng, chim chóc nhảy vào tranh nhau ăn tươi nuốt sống. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng.
Ngày đau đớn ngẫm rằng: Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau, hẳn sự sống là khổ.
Một lần khác, Ngài xin phép vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã. Ðến cửa Nam, Ngài thấy một người ốm nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng. Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái xác chết nằm giữa đường, ruồi nhặng bu bám, trương phình lên. Ba cảnh khổ già, bệnh, chết, cộng thêm cảnh tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đã chứng kiến hôm lễ Tịch Điền, khiến Ngài đau buồn, thương xót chúng sinh vô cùng.
Tới cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái Tử trong lòng nảy sinh một niềm cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp: “Tôi tu hành là quyết dứt bỏ mọi sự ràng buộc của cuộc đời, cầu thoát khổ, viên thành chính giác để phổ độ chúng sinh đều được giải thoát”.
Câu trả lời của vị tu sỹ như hóa giải được những trăn trở bấy lâu của Thái Tử. Ngài vui mừng trở về cung xin vua cha cho mình xuất gia.
Vua Tịnh Phạn không đồng ý với yêu cầu của Thái tử. Thái tử bèn yêu cầu vua cha 4 điều, nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn việc đi tu, chuyên tâm chăm dân, trị nước.
Bốn điều ngày yêu cầu vua cha là: Làm sao cho con trẻ mãi không già? Làm sao cho con khoẻ mãi không bệnh? Làm sao cho con sống mãi không chết? Làm sao cho mọi người hết khổ?
Vua cha vô cùng bối rối, không giải quyết được điều nào cả, chỉ biết tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Thái tử trong “cung vui”.
Trong khi đó với Thái Tử, lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa. Lòng Ngài nặng trĩu tình thương chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ. Thái Tử càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, đi tìm con đường cứu khổ cho muôn loài.
Đêm mùng 8 tháng 2 âm lịch, Thái Tử ra lệnh cho người hầu là Xa-nặc dắt con ngựa Kiền-trắc ra khỏi tàu ngựa. Trước khi đi, Thái Tử đến trước phòng Thái phi và người con trai đang ngủ thiếp. Thái tử hé cửa nhìn vào, Thái Tử rất yêu thương vợ con, nhưng đối với nhân loại đang đau khổ bất hạnh, lòng thương xót của Thái Tử lại còn da diết hơn. Ngài càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, đi tìm con đường cứu khổ cho muôn loài. Sau đó, Thái Tử một mình lên ngựa ra đi, vượt khỏi hoàng thành, theo sau chỉ có người hầu Xa-nặc
Năm ấy Thái Tử tròn 19 tuổi, Ngài từ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ con, từ bỏ cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc của một vị vương giả.
Khi tới bờ sông Anoma, Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, cắt tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Xa-nặc và lệnh cho Xa-nặc trở về. Thái Tử một mình ra đi, với bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ, bắt đầu cuộc sống không nhà của người xuất gia cầu đạo.
Chân không, đầu trần, Ngài bình thản bước đi giữa nắng nóng cũng như trong sương đêm lạnh giá. Ngài không nơi ở cố định. Khi thì ngồi dưới bóng cây, khi thì nằm nghỉ qua đêm trong một hang đá, tất cả mọi năng lực và ý chí của Ngài đều hướng tới lý tưởng cao cả tìm ra chân lý tối hậu, lý lẽ của sống và chết, ý nghĩa của nhân sinh, của cuộc đời, con đường dẫn tới giải thoát và cõi Niết bàn bất tử.
Sáu năm tu khổ hạnh không có kết quả, Ngài quyết ngồi thiền dưới cội Bồ đề với lời thề nguyện: “Nếu ta ngồi đây mà không tìm ra đạo lý nhiệm mầu, không tìm ra lẽ huyền vi của vũ trụ vạn pháp thì dù thịt nát, xương tan, ta quyết không rời bỏ chỗ này.”
Sau 49 ngày đêm ngồi tĩnh tọa dưới cội Bồ đề chuyên sâu vào thiền quán, tu tập tâm ly dục, ly ác pháp, Ngài đã chiến thắng nội chướng lẫn ngoại ma, đến canh một Ngài chứng Túc mạng Minh, canh hai Ngài chứng được Thiên nhãn Minh. Đến canh ba, Ngài quán chiếu sâu thẳm của vô thỉ vô minh, thấu tột cội nguồn các pháp, tâm Ngài hoàn toàn giải thoát khỏi Dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), Hữu lậu (ô nhiễm sự luyến ái của đời sống) và Vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh), dứt hẳn sanh tử luân hồi, khổ đau vạn kiếp. Đạt đến đó Ngài chứng được Lậu tận Minh.
Đêm đó, một cơn mưa vần vũ trút xuống. Khi cơn mưa và sấm sét dần tạnh, nhìn sao mai mọc cũng là lúc Ngài hoàn toàn chứng được Tam minh, thành tựu Chánh đẳng Chánh giác và thành Phật với danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Năm ấy Ngài 35 tuổi, ngày mùng 8 tháng Chạp năm 584 TCN.
Phật tử mang ơn ngài, ngày 8/12 âm lịch hàng năm là ngày ghi nhớ Đức Phật thành đạo, Phật tử mọi miền có các hành động thiết thực tưởng nhớ Ngài.
Tưởng nhớ ngày Phật thành đạo cũng là dịp để Phật tử biết con đường gian khổ của Đức Phật đã đi.
Ngày nay, Bồ đề tọa nơi đức Phật thành đạo đã trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, được tổ chức UNESCO công nhận; và là một trong bốn Tứ Động Tâm hay bốn Thánh tích quan trọng nhất của người Phật tử khắp năm châu. Trong tiếng Anh, người ta chỉ dùng chữ Holy Places (tức Thánh địa) để chỉ cho nơi này chứ không có từ tương xứng như từ Tứ Động Tâm. Tứ Động Tâm có nghĩa là những nơi khiến cho người nào một khi tới đó tâm người đó xúc động, tâm trí xao động, hướng thiện nhiều hơn là nghĩ tới việc ác.
1. Ý nghĩa thứ nhất của Thành đạo nói lên rằng con đường đi đến giải thoát là Trung đạo.
2. Ý nghĩa thứ hai là bằng nỗ lực của tự thân, với sự tu tập đúng pháp, con người có thể giác ngộ ngay tại đời này.
3. Ý nghĩa thứ ba, nội dung của Thành đạo là đoạn trừ vô minh, ái, thủ (đoạn diệt Mười hai nhân duyên), hay đoạn trừ Mười kiết sử.
4. Ý nghĩa thứ tư, có sự kiện Thành đạo có nghĩa là vô minh, ái, thủ... không thực có, hay không có tự ngã. Tự ngã chỉ là sản phẩm của vô minh, không thuộc thực tại.
5. Ý nghĩa thứ năm, đức Phật thành đạo có nghĩa là các pháp được nhìn dưới cái nhìn vô chấp thủ, được thấy thoát ly các tướng hay Vô ngã tướng.
6. Ý nghĩa thứ sáu, Thành đạo là trở về Thật pháp, trở về “Vô sinh”, “Tịch diệt”, đi ra mọi nghĩa đối đãi của thường, đoạn, khứ, lai, hữu, vô, sinh và diệt.
7. Ý nghĩa thứ bảy, sự kiện Thành đạo của Thế Tôn mở ra cho nhân loại một con đường thoát khổ, một niềm tin thoát khổ.