Hôm qua, Bộ Công thương tổ chức họp với các Tập đoàn lớn sản xuất điện, nhìn lại việc thực hiện Quy hoạch Điện VI (QHĐ VI), nhằm gỡ khó khăn để thực hiện QHĐ VII tốt hơn.
Tổng công suất chỉ đạt 69,1%!
Thứ trưởng Bộ Công thương Hoàng Quốc Vượng cho biết: Nhu cầu điện ở Việt Nam cao trong khu vực Đông và Nam châu Á. Song do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, dẫn đến nhu cầu sử dụng điện giảm đạt 14% (QHĐ VI dự kiến nhu cầu là 15%). Với tổng công suất lắp đặt các nhà máy điện đến năm 2010 khoảng hơn 21.000 MW; tăng gấp 3,2 lần so với 10 năm trước; sản lượng điện sản xuất đạt khoảng 100 tỷ kwh gấp 3,7 lần so với năm 2000.
Đến năm 2010, hệ thống lưới điện đã có trên 3.400 km đường dây và 11 trạm 500 kv với tổng dung lượng là 7.500 MVA. Lưới điện 110 kv và lưới trung, hạ thế đã bao phủ 100% các huyện, 97,9% các xã. Tính chung cả nước có 96% số hộ được cấp điện từ lưới quốc gia.
Năm 2010 điện thương phẩm đạt 86,7 tỉ kwh - thấp hơn số liệu dự báo khoảng 13,3 tỉ kwh. |
Theo dự báo nhu cầu điện trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015, xét đến năm 2025 (gọi tắt là Quy hoạch điện VI), phương án cơ sở được duyệt với mức tăng trưởng nhu cầu điện 17% cho cả giai đoạn 2006-2015, tương ứng với dự báo năm 2010 khoảng 100 tỉ kwh và năm 2015 khoảng 219 tỉ kwh.
Tuy nhiên, thực tế kết quả thực hiện năm 2010 điện thương phẩm đạt 86,7 tỉ kwh - thấp hơn số liệu dự báo khoảng 13,3 tỉ kwh. Tình hình thực hiện các dự án lưới điện năm 2006-2010 trạm 500 Kv theo quy hoạch là 15 dự án nhưng mới thực hiện được 9 dự án với khối lượng là 4.950 MVA/km đạt 59%; Trạm 220 KV, theo quy hoạch là 117 dự án nhưng mới chỉ thực hiện được 52 dự án đạt 2.323 MVA/km đạt 50%. Khối lượng thực hiện đầu tư lưới điện truyền tải khá lớn nhưng mới chỉ đạt tỷ lệ khoảng 50% so với yêu cầu duyệt Quy hoạch Điện IV.
Có rất nhiều công trình lưới điện bị chậm tiến độ từ 1-3 năm, chủ yếu do chậm đền bù và giải phóng mặt bằng (đặc bịêt là các tuyến đường dây và trạm 220 KV vành đai quanh khu vực thành phố Hà Nội, khu vực Hưng Yên, Bắc Ninh, TP.HCM và các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Long An...) dẫn đến việc quá tải các đường dây 220 KV và các trạm biến áp ở khu vực này, ảnh hưởng đến an toàn cung cấp điện. Đơn cử, các dự án chậm tiến độ năm 2010 gồm Thuỷ điện Na Lê (Bắc Hà), DakRtih, SêSan 4a, Thác Mơ MR, Đồng Nai 4, Cẩm Phả II, Ô Môn, Vũng Áng 1, Nhơn Trạch 2, Thủy điện Sekaman 3 (Lào)...
Chính sự chậm chễ của các dự án dẫn tới tình hình thực hiện các dự án nguồn điện giai đoạn 2006-2010 theo QHĐ IV là 14.581 MW, tuy nhiên, thực tế chỉ đạt 10.081 MW, tỷ lệ thực hiện chỉ đạt 69,1%. Lưới điện truyền tải cũng chỉ đạt 50% khối lượng so với quy hoạch.
Khó muôn năm cũ
Theo Bộ Công thương, chủ đầu tư các dự án nguồn điện lớn ở Việt Nam gồm: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản (TKV), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN)... |
Nguyên nhân gây khó khăn chung được các Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Dầu khí, Than Khoáng sản kêu nhiều đó là: thiếu vốn, vay ngân hàng với lãi suất cao 21-23%; chậm trễ trong công tác GPMB, vừa đền bù xong đợt theo khung giá cũ, thì cả người đã nhận tiền đền bù và người chưa nhận tiền đền bù đòi hưởng theo khung giá mới; muốn xây được một trạm biến áp phải cùng với địa phương họp tới 6 lần, có khi mất cả 1-2 năm. (Vì địa phương lý giải, cấp đất cho khu công nghiệp, người dân của địa phương còn có công ăn việc làm, chứ cấp đất cho ngành điện, địa phương không thấy được lợi ích gì); việc nhập khẩu nguyên, nhiên liệu khó khăn (cụ thể là than); tuy nhiên, khó khăn mấu chốt là giá điện quá thấp, nên việc hút đầu tư khó khăn.
Bên cạnh đó, còn các khó khăn như giao cho EVN quá nhiều dự án vượt khả năng, cụ thể, EVN đã trả lại cho Chính phủ 13 dự án, một trong nguyên nhân chính là do không đáp ứng được nguồn vốn để đầu tư. Hay như một số dự án BOT cho các Tập đoàn Đầu nước ngoài lựa chọn các nhà thầu hạn chế về khả năng chuyên môn và năng lực tài chính, gây chậm tiến độ thực hiện các dự án.
Theo ông Dương Quang Thành - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), để đảm bảo đầu tư các dự án trong QHĐ VI, tổng vốn cần 832.000 tỷ đồng; tuy nhiên, đến nay EVN mới thu xếp được hơn 283.000 tỷ đồng, còn thiếu là 599.000 tỷ đồng.
Hay như đại diện Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam chia sẻ: khó khăn trong công tác chuẩn bị dự án mất 3-4 năm. Cụ thể, lập Quy hoạch địa điểm mất 1-2 năm; lập Dự Dự án đầu tư mất 1-2 năm; việc lựa chọn nhà thầu mất 1-1,5 năm; Kể cả khi dự án đã hoàn thành, chỉ khâu đấu nối điện từ Nhà máy vào lưới điện quốc gia cũng mất 4-6 tháng...
Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng cho hay sẽ đề xuất với Thủ tướng Chính phủ cần sớm xây dựng cơ chế lựa chọn chủ đầu tư có năng lực thực hiện dự án, chế tài quản lý quá trình thực hiện các dự án, nhằm “đẩy lùi” tình trạng chậm tiến độ như hiện nay và nâng cao hiệu quả đầu tư dự án. Đồng thời, sớm vận hành thị trường điện cạnh tranh và thực hiện giá bán điện theo Thông tư 41/2010/TT-BCT ngày 14/12/2010. Đồng thời, Bộ sẽ xây dựng lộ trình tăng giá điện trình Thủ tướng, từ nay đến năm 2020 giá điện đạt 8-9 cent/kwh.
Đồng thời, Bộ sẽ giao cho UBND các tỉnh phối hợp chặt chẽ với các chủ đầu tư dự án điện, đẩy nhanh GPMB, tái định cư, đảm bảo đúng tiến độ dự án điện, đặc biệt là các dự án lưới. Nâng cao năng lực, chất lượng thi công các công trình với giá thành hợp lý của các nhà thầu Việt Nam (xây dựng, lắp đặt chế tạo thiết bị).
Mai Hoa