Hành vi vi phạm quy định về sử dụng phân bón quy định tại Điều 11 Dự thảo Nghị định, tại khoản 2 quy định phạt tiền “từ 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng đối với hành vi vi phạm sử dụng phân bón không có Quyết định công nhận lưu hành tại Việt Nam”.
Theo nhận định của các doanh nghiệp và chuyên gia pháp luật mà VCCI ghi nhận được, dự thảo quy định xử phạt đối với người sử dụng trong trường hợp trên là chưa hợp lý, vì trong nhiều trường hợp họ không thể biết được sản phẩm phân bón có Quyết định công nhận lưu hành tại Việt Nam hay không.
“Đây là trách nhiệm của người cung cấp phân bón. Mặt khác, hiện nay các quy định về phân bón cũng đã quản lý theo hướng xác định trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu, buôn bán phân bón đối với quy cách, chất lượng sản phẩm đưa vào lưu thông trên thị trường” – văn bản của VCCI gửi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nêu – “Theo quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính, hành vi vi phạm hành chính được xác định khi người vi phạm có lỗi. Trường hợp trên, người sử dụng không có lỗi nên xử phạt đối tượng này là chưa phù hợp”.
Do vậy VCCI đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định nói trên tại khoản 2 Điều 11 Dự thảo.
Trong văn bản nói trên, VCCI cũng chỉ ra một số nội dung chưa hợp lý. Ví như, về hành vi vi phạm quy định về điều kiện sản xuất phân bón (Điều 6), điểm b khoản 1 quy định xử phạt đối với hành vi “địa điểm sản xuất, diện tích nhà xưởng không phù hợp với công suất của dây chuyền, máy móc thiết bị sản xuất phân bón”, nhưng không làm rõ thế nào được cho là “không phù hợp”. Quy định này xuất phát từ quy định tại Điều 18 Nghị định 108/2017/NĐ-CP ngày 02/9/2017 về quản lý phân bón, tuy nhiên bản thân quy định về điều kiện sản xuất phân bón chưa rõ ràng, do đó sẽ trao quá nhiều quyền quyết định điều kiện có phù hợp hay không cho cán bộ thực thi, gây khó khăn cho DN. Để đảm bảo tính hợp lý và minh bạch, VCCI đề nghị bỏ quy định này, và trong trường hợp vẫn giữ thì cần quy định rõ thế nào là “không phù hợp”.
Hay như tại điểm c khoản 5 Điều 6 của Dự thảo quy định xử phạt đối với hành vi “không thực hiện thu hồi phân bón hoặc không tuân thủ thời hạn thu hồi phân bón theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền”. Quy định này xử phạt đối với hai hành vi “không thực hiện thu hồi phân bón” và “không tuân thủ thời hạn thu hồi phân bón”. Xét về bản chất, đây là hai hành vi có tính chất, mức độ vi phạm khác nhau, trong đó hành vi “không thực hiện thu hồi phân bón” có tính chất nguy hiểm hơn “không tuân thủ thời hạn thu hồi phân bón”. Do đó, xếp chung hai hành vi này vào một khung xử phạt là chưa hợp lý, mà phải phân tách thành hai hành vi và xác định khung phạt tiền khác nhau. Đồng thời, phải xác định rõ số ngày tối đa không tuân thủ thu hồi được xem là không thu hồi sản phẩm, còn ít hơn số ngày tối đa trên, thì mức phạt tiền sẽ thấp hơn.
Một bất cập khác của Dự thảo là quy định mức phạt khác nhau cho hai hành vi có cùng tính chất. Cụ thể, điểm đ khoản 7 Điều 6 quy định xử phạt từ 40 triệu đồng đến 50 triệu đồng đối với hành vi “hoạt động sản xuất phân bón khi đã bị đình chỉ hoạt động hoặc Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất phân bón/Giấy phép sản xuất phân bón đã hết hạn, bị tước quyền sử dụng, bị thu hồi”. Điểm g khoản 7 cũng điều này quy định xử phạt từ 60 triệu đồng đến 70 triệu đồng đối với hành vi “sản xuất phân bón khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất phân bón/Giấy phép sản xuất phân bón”. Hai hành vi trên đều có tính chất “sản xuất phân bón khi không có giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất phân bón/Giấy phép sản xuất phân bón đang có hiệu lực”, vì vậy việc xác định hai khung xử phạt khác nhau cho hai hành vi trên là chưa phù hợp về tính chất vi phạm tương ứng với mức xử phạt.