Nâng cao hiệu quả đầu tư công

Nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào vốn đầu tư. Phần đóng góp vào tăng trưởng GDP của tăng đầu tư chiếm trên 55%, tăng lao động chiếm 20%, còn lại các yếu tố tăng năng suất như năng suất lao động, đổi mới công nghệ chiếm dưới 25% trong khi con số tăng năng suất ở các nước trong khu vực chiếm khoảng 4%.

Nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào vốn đầu tư. Phần đóng góp vào tăng trưởng GDP của tăng đầu tư chiếm trên 55%, tăng lao động chiếm 20%, còn lại các yếu tố tăng năng suất như năng suất lao động, đổi mới công nghệ chiếm dưới 25% trong khi con số tăng năng suất ở các nước trong khu vực chiếm khoảng 4%.

Từ những con số
“Xét về hiệu quả kinh tế, hiệu quả đầu tư của toàn bộ nền kinh tế đã thấp, đầu tư công lại càng thấp hơn”- PGS.TS Nguyễn Đình Tài, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nhận định. Những năm từ 2001-2005, hệ số hiệu quả vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (ICOR) tức tỷ lệ vốn đầu tư để tạo ra một đơn vị gia tăng GDP là dưới 5 lần và năm 2007 lên mức 5,17 lần. Hệ số ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó có đầu tư công và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước năm 2007 là 8,1 lần, cao hơn nhiều so với con số 3,7 lần của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.
Những con số này cũng minh chứng cho những đánh giá chung khá đồng thuận là hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước thấp, và thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trước hết, xét về doanh thu thuần được tạo ra bởi một đồng vốn kinh doanh thì một đồng vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước năm 2000 tạo ra được hơn 0,66 đồng doanh thu; năm 2007, con số này khoảng 0,56 đồng, giảm khoảng 14%. Một đồng vốn kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2000 tạo ra được hơn 0,7 đồng doanh thu, năm 2007  khoảng 0,97 đồng doanh thu, tăng gần 39%.

Phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp là một trong các vấn đề cấp thiết nâng cao “chất” nguồn vốn đầu tư.
Trong ảnh: Nông trang viên xã Tam Đa (Vĩnh Bảo) thu hoạch rau cải.
                                                                                                    Ảnh: Hoàng Phước


Số vốn kinh doanh để tạo ra một chỗ làm việc trong doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng tăng trong khi con số này ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại có xu hướng giảm. Có thể nói, nếu loại trừ yếu tố lạm phát và sự tăng giá các nguyên liệu, nhất là dầu lửa thì hiệu quả kinh doanh của các tập đoàn và tổng công ty xấu đi nhiều trong các năm 2008, 2009.
Đầu tư nhà nước vào dịch vụ tài chính, tiền tệ và các ngành công nghiệp chế biến công nghệ cao  chưa đáng kể. Trong khi đó, đầu tư nhà nước vẫn còn đáng kể ở một số ngành mà tư nhân có thể sẵn sàng đầu tư như thương mại, khách sạn, xây dựng dân dụng, du lịch, dệt... Đầu tư phát triển đường sắt mới được quan tâm từ năm 2005, và mới chiếm 1% tổng số đầu tư của Nhà nước (đường bộ là 11% và đường thủy  7%)...

Cấp thiết nâng “chất” cho nguồn vốn đầu tư
Hệ số ICOR của Việt Nam cao có phần vì đầu tư công cho kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội còn lớn, tác động đến tăng trưởng GDP có độ trễ. Có ý kiến cho rằng, hệ số ICOR của Việt Nam cao là điều không thể tránh khỏi, vì Việt Nam là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp, nên để phát triển nhanh, phải đầu tư nhiều vào công trình kết cấu hạ tầng. Lập luận này thiếu thuyết phục vì các nước trong khu vực ở thời kỳ đầu công nghiệp hóa cũng có điểm xuất phát thấp và nhu cầu lớn về đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng như hiện nay nhưng hiệu quả đầu tư của họ cao hơn hẳn.
Dù rằng Việt Nam mới bước vào giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa và phát triển nên xu hướng tăng trưởng theo chiều rộng, tăng trưởng dựa vào vốn đầu tư và khai thác ngành có lợi thế về tài nguyên và lao động có trình độ thấp, giá rẻ là khó tránh khỏi nhưng việc nâng chất lượng cho nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư công trở thành vấn đề cấp thiết.
Mô hình kinh tế nhấn mạnh đến định hướng xuất khẩu khiến chi tiêu của Chính phủ, đầu tư của doanh nghiệp... sẽ chủ yếu hướng đến các ngành xuất khẩu và phục vụ xuất khẩu  phần nào chia cắt thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. “Nhưng xét cho cùng,  xuất khẩu hay tiêu thụ nội địa đều phải dựa trên hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh thực thụ chứ không phải do Nhà nước hỗ trợ mà có”- TS Nguyễn Đình Tài nhấn mạnh.
Những yếu kém khiến hiệu quả đầu tư công chưa cao như đầu tư phân tán, kéo dài, dàn trải, thiếu đồng bộ khiến có công trình hoàn thành mà không đưa vào sử dụng, thậm chí là không hoàn thành được. Hay việc đầu tư thiếu quy hoạch; quản lý, giám sát đầu tư còn yếu kém làm thất thoát vốn đầu tư; cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư chưa hợp lý hay khuyến khích và ưu đãi đầu tư còn dàn trải cũng là những “lực cản” với hiệu quả đầu tư... Đặc biệt, việc được bao cấp, quản trị yếu kém, dựa nhiều vào vốn tín dụng và tài nguyên thiên nhiên... khiến đầu tư của nhiều doanh nghiệp nhà nước yếu kém.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư công, trước hết phải khắc phục những yếu kém trên, đồng thời với việc xây dựng, nâng cấp hệ thống thông tin, thống kê về kinh tế- xã hội, trước hết là thông tin về kinh tế vĩ mô, về đầu tư nhà nước. Đồng thời, cần nâng cao năng lực quản lý đầu tư, hiệu lực và hiệu quả của công tác giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư nhà nước. Rất cần một cơ quan đầu mối phối hợp và chịu trách nhiệm cuối cùng trong kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả kinh tế- xã hội của các dự án đầu tư nói riêng và đầu tư nhà nước nói chung. Cơ cấu đầu tư nhà nước cần được cơ cấu lại cùng với tăng thêm đầu tư cho y tế, đào tạo nghề, phát triển hệ thống tài chính, đặc biệt trong giai đoạn 2011-2015, tăng đầu tư phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ nông sản.
Từ 1-7 2010, là lúc các doanh nghiệp nhà nước phải chuyển đổi hoạt động theo Luật Doanh nghiệp “thống nhất”. Đây là cơ hội và là sức ép cho doanh nghiệp nhà nước để đổi mới quản trị và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Nhưng,hiệu quả đến đâu còn phụ thuộc vào chính nỗ lực của những doanh nghiệp được chuyển đổi này cũng như sự quyết liệt, đeo đuổi đến cùng cho tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước.

Nguyễn Huyền