Hôm nay (21/3), UN Women, UNODC, UNDP công bố nghiên cứu đa quốc gia của Liên hợp quốc về “Xét xử tội hiếp dâm: Tìm hiểu cách ứng phó của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở Thái Lan và Việt Nam”, được nghiên cứu tại Thái Lan và Việt Nam nhằm hưởng ứng chiến dịch của Tổng Thư ký LHQ về chấm dứt bạo lực với phụ nữ.
Ông Nick Booth – Cố vấn của UNDP tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương khẳng định, bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái là một hình thức bạo lực phổ biến và bạo lực tình dục là một trong những hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhất mà phụ nữ phải đối mặt.
Còn quan niệm “không có việc hiếp dâm trong hôn nhân”
Tại Việt Nam, số liệu do Tổng cục thống kê tiến hành năm 2010 cho thấy, 2/3 phụ nữ có gia đình đã trải qua bạo lực nhưng 87% phụ nữ chịu bạo lực này không tìm kiếm sự trợ giúp từ các dịch vụ công.
Các phát hiện của nghiên cứu cũng chỉ ra, 86% nạn nhân bị hiếp dâm biết người bị tình nghi là thủ phạm và 76% nạn nhân không có dấu hiệu thương tích rõ rệt. Đa số các trường hợp xảy ra ở những nơi riêng tư.
Số liệu này trái ngược với quan niệm phổ biến rằng hành vi hiếp dâm thường do người lạ, có gây thương tích và xảy ra ở nơi công cộng.
Điều đáng nói là vẫn còn quan niệm “không có việc hiếp dâm trong hôn nhân” nên không có vụ việc nào được ghi nhận hay thụ lý. Các trường hợp bạo lực tình dục trong hôn nhân nếu được phản ánh sẽ thường được giải quyết thông qua hòa giải.
Các chuyên gia thực hiện nghiên cứu cho rằng, những phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với các hệ thống pháp lý xử lý các tội phạm liên quan đến tình dục và tương tác với các nạn nhân vị bạo lực tình dục.
Nghiên cứu còn phát hiện ra những rào cản lớn về chính sách và thực tiễn về mặt xã hội, pháp lý và thể chế mà nạn nhân bị cưỡng bức phải đối mặt.
“Đó là những rào cản về định kiến và khuôn mẫu đối với chính nạn nhân và kẻ được cho là thủ phạm, thủ tục tố tụng kéo dài và thiếu nhạy cảm với những thương chấn tâm lý mà nạn nhân phải chịu đựng” – nghiên cứu chỉ rõ.
Nạn nhân bị cưỡng bức phải đối mặt với nhiều rào cản về thể chế, tâm lý và xã hội (Ảnh minh họa) |
Cán bộ nhận hối lộ khiến nhiều nạn nhân bị “lờ đi”
Ở cả Việt Nam và Thái Lan, việc bỏ cuộc trong quá trình đi tìm công lý của nạn nhân bị bạo lực tình dục có thể xảy ra ở tất cả các giai đoạn của quy trình tố tụng hình sự.
Qua hồ sơ các vụ án cho thấy, nạn nhân phải kể đi kể lại vụ việc khiến họ cảm thấy bị làm nhục, trầm trọng thêm những sang chấn về tâm lý và tăng thêm khả năng muốn bỏ cuộc của nạn nhân.
Không chỉ có vậy, thực tế này còn khiến nhiều nạn nhân của bạo lực tình dục không muốn công khai vụ việc và chấp nhận “bỏ qua”.
Thậm chí, nghiên cứu cũng nhận thấy, việc hối lộ những người có chức năng xử lý vụ việc khiến nạn nhân bị bạo lực tình dục bị “lờ đi”; hoặc tạo áp lực khiến nạn nhân không dám tố cáo hoặc chấp nhận giải quyết “ngoài hệ thống tư pháp”.
Theo bà Anna–Karin Jatfors - Phó Giám đốc Văn phòng UN Women khu vực châu Á – Thái Bình Dương: “Hiểu được những rào cản công lý sẽ là bước quan trọng để đảm bảo công lý cho phụ nữ và chấm dứt tình trạng bạo lực tình dụng không được xử lý một cách công bằng”.
Để cải thiện tình hình và bảo về quyền của phụ nữ, nhất là những nạn nhân bị bạo lực tình dục, Báo cáo khuyến nghị Việt Nam cần thiết lập dịch vụ tư pháp thiết yếu và có chất lượng cho nạn nhân, ưu tiên việc bảo vệ và hỗ trợ cho họ.
Ngoài ra, cần thúc đẩy các hoạt động ứng phó thích hợp và có sự điều phối giữa ngành tư pháp, Chính phủ và xã hội.