Huyền bí điện Trường Bà
Điện Trường Bà toạ lạc bên tỉnh lộ 622, thuộc địa phận thị trấn Trà Xuân, huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Điện này còn được gọi là Mao Đình Nhứt Ốc, dân gian thường gọi là chùa Bà. Ngoài chánh thần Thiên Y A Na, nơi này còn thờ Nam Hải tứ vị Thánh vương, Thiên Hậu Thánh mẫu, Quan Thánh cùng một số nhân thần khác. Hai bên tả hữu trước điện có thờ Bạch Hổ sơn quân và Chúa quỷ Man vương.
Theo ông Châu Đình Hòa (chánh tế điện Trường Bà), người dân ở đây không biết điện Trường Bà có từ thời nào nhưng về Thiên Y A Na thì trước đây vốn ở chùa Đá trên núi Đá Bà, cách điện Trường Bà khoảng 5km về phía tây.
Chùa Đá thực ra là một hang động khoét sâu trong núi đá có rất nhiều ngách nhưng không ai dám vào sâu bên trong. Quanh ngôi chùa này có rất nhiều cây ăn quả như chanh, quýt, bưởi và rau rừng bốn mùa xanh tốt. Dù có năm hạn hán, cây cỏ chết hết thì cây trên hang đá này vẫn một màu xanh ngắt.
Thời chiến tranh, do nghi ngờ cách mạng, bộ đội, du kích hoạt động trong hang, máy bay Mỹ đến thả bom xăng đốt nhưng chùa Đá vẫn không hề hấn gì. Lính Mỹ dùng đại bác nhằm thẳng hang chùa Bà bắn nhưng đạn bay đến đây nổ cái bụp rồi im hẳn, còn nòng đại bác thì toác ra. Cuối cùng, lính Mỹ cũng tìm đến hang chùa Đá lạy xin.
Theo ông Hòa, truyền thuyết dân gian kể lại rằng, khi Thiên Y A Na hiển thánh, thường có quân đi theo. Những đoàn quân này là bầy ong và tùy tướng Bạch Hổ sơn quân giúp bà đánh dẹp giặc.
“Bà còn có công kết nối mối quan hệ giữa người miền xuôi và người thượng phía tây Quảng Ngãi, Quảng Nam đến gần nhau hơn, mua bán, đổi chác. Vì vậy mà xuân thu nhị kỳ hai lần cúng bà Thiên Y A Na tại điện Trường Bà, nhiều đồng bào dân tộc các tỉnh tìm về, trong đó có cả người Chăm ở Châu Đốc, tỉnh An Giang”, ông Hòa cho biết.
Theo tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ (nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi), theo nhiều di tích và văn bản để lại, vào khoảng thế kỷ XIV - XV, người Chăm đã sinh sống tại Trà Xuân và xây điện Trường Bà để thờ phụng, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với Thánh mẫu trong việc giúp dân tộc Chăm khai hoang, mở đất và có cuộc sống no đủ.
“Cách đây khoảng 15 năm, khi dọn dẹp đống gạch đá đổ nát trong khuôn viên ngôi đền, cơ quan chức năng đã phát hiện phần đầu một tượng đất nung rất nhỏ. Một nhà dân tộc học người Pháp nhận định đó là tượng có niên đại trên 1.500 năm. Trong dịp tổ chức lễ hội điện Trường Bà năm 2011, tôi đã trao lại bức tượng này cho Ban Quản lý điện Trường Bà”, tiến sĩ Vũ cho biết.
Trong sách “Đại Nam nhất thống chí” quyển III chép về Quảng Ngãi của triều Nguyễn có viết về điện Trường Bà là một trong 17 đền, miếu tiêu biểu của Quảng Ngãi. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa xác định được niên đại xây dựng điện này, bởi các sắc phong bị cháy trong chiến tranh và hạn chế lịch sử một thời đã làm mất đi.
Di tích điện Trường Bà đã được tỉnh Quảng Ngãi đầu tư trùng tu, tôn tạo từ năm 2010. Năm 2014, di tích điện Trường Bà được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2017, Lễ hội điện Trường Bà được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Hàng năm, cứ vào ngày 15, 16, 17/4 âm lịch, huyện Trà Bồng lại tổ chức lễ hội điện Trường Bà. Lễ hội này ra đời và tồn tại từ rất sớm, gắn liền với sự hình thành của điện Trường Bà và quá trình khai phá vùng đất miền tây Quảng Ngãi. Đây là một loại hình lễ hội của cư dân nông nghiệp, gắn
liền với đời sống, sinh hoạt của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, làm nương rẫy và là sản phẩm do cộng đồng người Kinh và người Cor sáng tạo, giữ gìn trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Việc tổ chức lễ hội điện Trường Bà nhằm đáp ứng nhu cầu về mặt tinh thần cho đồng bào các dân tộc Kinh và Cor; đồng thời cũng là dịp để mọi người vui chơi, hưởng thụ văn hóa, giao tiếp cộng đồng, làm cho tinh thần vui tươi, thoải mái trước khi bước vào một mùa vụ mới.
Được biết, Lễ hội đáp ứng nhu cầu tinh thần và nguyện vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc nơi đây, đồng thời mang lại nhiều ý nghĩa cùng giá trị nhân văn sâu sắc. Đây như là di tích sống khẳng định tinh thần đoàn kết giữa đồng bào miền xuôi và miền ngược. Với tinh thần đó, lễ hội hàng năm tại đây xứng đáng được bảo tồn, giữ gìn cho muôn đời sau.
Giai thoại Bạch Hổ sơn quân
Bên trái điện Trường Bà có am nhỏ thờ Bạch Hổ sơn quân, vốn là tùy tướng thân cận nhất của Thiên Y A Na. Tương truyền, những khi có giặc đánh tới vùng đất này, quân bà Thiên Y A Na là bầy ong hàng vạn con từ đâu lũ lượt bay đến tấn công khiến địch nằm la liệt. Sau đó, tùy tướng Bạch Hổ sơn quân xuất hiện đến kết liễu rồi mang đầu giặc treo ở một cây đa trong vùng. Bây giờ, người dân địa phương vẫn gọi cây đa ấy là cây đa treo đầu giặc.
Miếu thờ Bạch Hổ cách điện Trường Bà chừng 1km về phía đông. |
Tương truyền, Bạch Hổ sơn quân là một ông hổ đi tu, không ăn thịt người. Nhờ có ông mà cả một vùng rừng quế bạt ngàn xưa kia không thấy các loài mãnh thú về quấy phá dân làng. Nhớ ơn Bạch Hổ sơn quân, ngoài am nhỏ thờ ở điện Trường Bà, người dân ở Trà Bồng còn lập miếu thờ Bạch Hổ cách điện Trường Bà chừng 1km về phía đông.
Theo truyền thuyết, công lao của Bạch Hổ sơn quân đã được triều đình nhà Nguyễn ban sắc phong “Sơn lâm chúa xứ Trùm cả Bạch Hổ đại tướng quân”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” cũng đã từng ghi chép về miếu thờ này từ hàng trăm năm trước. Đó đồng thời cũng là sự tri ân công lao của các bậc tiền nhân trong quá trình mở cõi, xây dựng quê hương trên mảnh đất Trà Bồng.
Theo tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ, từ thời xa xưa, dân tộc ta chủ yếu sống dựa vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, tín ngưỡng dân gian thờ cúng tự nhiên đã giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân, với niềm tin rằng các vị thần sẽ phù hộ cho mùa màng tươi tốt, để cuộc sống được ấm no, hạnh phúc.
Trong các tín ngưỡng dân gian ấy, phải kể đến tín ngưỡng thờ động vật, cụ thể là tín ngưỡng thờ Bạch Hổ. Theo quan niệm dân gian, hổ là vị “chúa tể sơn lâm”, cai quản vùng rừng núi. Rải rác trên khắp đất nước ta đều có bàn thờ hoặc miếu thờ thần Bạch Hổ, với các tên gọi: “Sơn quân chi thần”, “Sơn quân mãnh hổ”, “Sơn lâm chúa xứ”, “Sơn lâm đại tướng quân”.
Có thể nói, việc thờ cúng Bạch Hổ (thần Hổ) là một tục lệ chứa đựng nhiều lớp giá trị: giá trị tâm linh, giá trị nhân văn, giá trị giáo dục truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Ngoài ra, tục thờ cúng Bạch Hổ còn góp phần nâng cao tính cộng đồng, gắn kết các dân tộc cùng sinh sống cộng cư trên một vùng đất.
Việc duy trì hoạt động thờ cúng Bạch Hổ là nhu cầu chính đáng của người dân, tín ngưỡng truyền thống này đã và đang góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.