Mỹ từng nhiều lần muốn ném bom nguyên tử Việt Nam

Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) từng ra lệnh cho cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger (phải) dùng bom nguyên tử tại Việt Nam
Tổng thống Mỹ Richard Nixon (trái) từng ra lệnh cho cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger (phải) dùng bom nguyên tử tại Việt Nam
(PLO) -Trước thất bại rõ ràng trên chiến trường Việt Nam sau tết Mậu Thân, ngày 27/10/1969, 18 máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ, mang theo vũ khí nguyên tử được lệnh xuất kích hướng về phương Đông, trong nhiệm vụ tối mật nhằm cứu vãn thể diện của Mỹ trên bàn đàm phán.
Và đây không phải lần đầu tiên vũ khí nguyên tử được giới chức Mỹ nhắc tới trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam.
Vài tuần trước khi hạ lệnh leo thang ném bom miền Bắc, trong cuộc điện đàm với cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger ngày 25/4/1972, Tổng thống Nixon một lần nữa yêu cầu nghiên cứu giải pháp dùng bom nguyên tử, để buộc Việt Nam phải nhượng bộ trên bàn đàm phán, mở ra lối thoát danh dự cho Mỹ trong cuộc chiến.
Trong những đoạn băng ghi âm được Cơ quan lưu trữ quốc gia Mỹ giải mật 30 năm sau đó, Nixon đã đề nghị Kissinger cân nhắc sử dụng bom nguyên tử, sau khi vị cố vấn đưa ra một loạt lựa chọn để leo thang chiến tranh tại miền Bắc, gồm ném bom các nhà máy điện và bến cảng.
“Tôi thích dùng bom nguyên tử hơn”, Nixon nói.“Việc đó, theo tôi, là quá nhiều”, Kissinger đáp lại. “Bom nguyên tử. Nó khiến ông bận tâm sao?”, Nixon hỏi lại. “Tôi chỉ muốn ông nghĩ đến những chuyện lớn”.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 1985 khi đã không còn là Tổng thống, Nixon thừa nhận đã tính tới “giải pháp hạt nhân”.
Trước đó, ngay từ năm 1959 và 1968, không quân Mỹ từng hai lần đề xuất ném bom nguyên tử xuống Việt Nam, các hồ sơ được giải mật khẳng định.
Năm 1959, Tham mưu trưởng không quân Mỹ, Tướng Thomas D White, đã lựa chọn vài mục tiêu tại miền Bắc để yêu cầu ném bom nguyên tử. Tuy nhiên, đề xuất này bị các quan chức quân sự khác của Mỹ bác bỏ.
“White muốn đánh gục quân giải phóng và các tuyến đường tiếp tế của họ bằng cách tấn công vào những mục tiêu được chọn ở miền Bắc Việt Nam, bằng vũ khí thông thường hoặc hạt nhân”, một hồ sơ khẳng định.
“Mặc dù báo cáo của White đề nghị sẽ cảnh cáo giới chức miền Bắc Việt Nam trước khi tấn công, các quan chức khác đã bác bỏ việc này, có thể do vũ khí hạt nhân được đề cập đến. 7 tháng sau, đề xuất này bị rút lại”, báo cáo viết.
Pháo đài bay B-52 của Mỹ có khả năng mang bom hạt nhân (Ảnh: Internet)
Pháo đài bay B-52 của Mỹ có khả năng mang bom hạt nhân (Ảnh: Internet) 
Đến năm 1968, sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của quân giải phóng vào các căn cứ Mỹ tại miền Trung, Tướng William Westmoreland, Tư lệnh lực lượng Mỹ tại Việt Nam cũng đã đề xuất sử dụng “vũ khí hạt nhân hoặc hóa học” để giúp giải vây cho các căn cứ Mỹ.
“Cuối tháng Giêng, tướng Westmoreland đã cảnh báo rằng nếu tình hình gần DMZ (khu phi quân sự) và tại Khe Sanh xấu đi nghiêm trọng, vũ khí hạt nhân hoặc hóa học có thể phải được sử dụng”, một báo cáo dài 106 trang, có tiêu đề “Không quân tại Đông Nam Á: Hướng tới việc ngừng ném bom, 1968”, từng được gắn nhãn “tối mật” viết.
“Việc này đã khiến (tham mưu trưởng không quân) tướng McConnell hối thúc Bộ tổng tham mưu cho phép yêu cầu Bộ tư lệnh Thái Bình Dương chuẩn bị một kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân cấp thấp, để ngăn chặn tổn thất ghê gớm cho các căn cứ của lính thủy đánh bộ Mỹ”, báo cáo khẳng định. Dù vậy đề xuất này sau đó cũng bị bác bỏ.
Việt Nam không nhượng bộ trước đe dọa bom nguyên tử
Ngày 27/10/1969, 18 máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ, mang theo vũ khí nguyên tử được lệnh xuất kích hướng về phía Đông, đích đến là Mátxcơva nhưng mục tiêu thực sự là gây sức ép để lãnh đạo Liên Xô dừng những hậu thuẫn trên chiến trường, khiến Hà Nội phải nhượng bộ trên bàn đàm phán hòa bình tại Paris.
Trước đó, theo tờ Wired, trên bàn đàm phán năm 1969 tại Paris, phái đoàn Việt Nam cũng tuyên bố sẽ ngồi đó mà không nhân nhượng “cho đến khi cái ghế này mục ra” cũng không.
Kế hoạch được triển khai trong bối cảnh Nixon vừa đắc cử Tổng thống tháng 1/1969, với ưu tiên hàng đầu là chấm dứt cuộc chiến tại Việt Nam càng nhanh càng tốt, với các điều khoản có lợi nhất có thể cho Mỹ.
Sau nhiều cân nhắc, đến giữa năm 1969, Nixon và Henry Kissinger tin rằng, một chiến lược kết hợp ngoại giao quốc tế với những đe dọa và hành động vũ lực có thể khiến chính phủ miền Bắc Việt Nam phải nhượng bộ trên bàn đàm phán.
Tại nhiều cuộc gặp trong các tháng 7 và 8 năm đó, bộ đôi trên cùng các phụ tá đã phát đi những cảnh báo nhắm tới lãnh đạo tại Mátxcơva và Hà Nội rằng, nếu tới 1/11, chính quyền miền Bắc không chấp thuận nhượng bộ theo các điều khoản của Mỹ, Nixon sẽ thực hiện “các biện pháp gây hậu quả lớn”.
Trong trường hợp chiêu “võ mồm” này thất bại, bước hai sẽ được triển khai bao gồm hành động leo thang quan sự, bằng các chiến dịch tấn công đa dạng nhắm vào miền Bắc.
Một kế hoạch quân sự mang mật danh “Duck Hook” được vạch ra, trong đó một nhóm chuyên viên đặc trách được giao nhiệm vụ đánh giá những lựa chọn quân sự. “Tôi không tin rằng một chính phủ nhỏ bé như Bắc Việt Nam lại không có điểm yếu”, Kissinger nói.
“Nhiệm vụ của nhóm này là nghiên cứu lựa chọn về một đòn quyết định, dữ dội nhắm vào Bắc Việt Nam”. Tổng thống, Kissinger nói với các thành viên trong nhóm, muốn một “kế hoạch quân sự được thiết kế để tạo ra tác động lớn nhất vào năng lực quân sự của đối phương”, để “nhanh chóng kết thúc” cuộc chiến.
Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Lê Đức Thọ (trái) trong một lần gặp Kissinger tại Paris năm 1973 (Ảnh: AFP)
Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Lê Đức Thọ (trái) trong một lần gặp Kissinger tại Paris năm 1973 (Ảnh: AFP)
Là một trong những chiến dịch quân sự bí mật lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ, kế hoạch này bao gồm một loạt các chuyến bay huấn luyện nhằm nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu, cảnh báo mặt đất của Bộ chỉ huy không quân chiến lược, tăng cường các hoạt động của hải quân, giám sát chặt các tàu của Liên Xô trên đường tới miền Bắc Việt Nam, và “phô trương sức mạnh” của các “pháo đài bay” B-52 mang vũ khí hạt nhân.
Thế nhưng cuối cùng kế hoạch đồ sộ được chuẩn bị kỹ lưỡng này của Washington đã không thể khiến Liên Xô cũng như Việt Nam nhượng bộ trước thời hạn 1/11 mà Mỹ đưa ra.
Theo báo giới Mỹ, các nhà lãnh đạo tại Hà Nội biết khả năng chính quyền Nixon có thể bỏ bom nguyên tử xuống miền Bắc, nhưng vẫn không lùi bước.
Tại một cuộc đàm phán ở Paris, ngày 4/12/1972, trưởng đoàn đàm phán Việt Nam, ông Lê Đức Thọ tuyên bố với Kissinger rằng: “Chúng tôi đôi lúc nghĩ rằng các ông có thể dùng vũ khí nguyên tử bởi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, phó Tổng thống Nixon đã đề xuất sử dụng vũ khí nguyên tử…
Nếu chúng tôi không đạt được mục tiêu trong đời mình, con cháu chúng tôi sẽ tiếp tục đấu tranh…Chúng tôi đã phải chịu hàng chục triệu quả bom và đạn pháo. Chúng tương đương với 600 quả bom nguyên tử… Sự thật đơn giản đó là chúng tôi sẽ không chấp nhận và cam chịu làm nô lệ. Do đó những đe dọa và việc phá vỡ lời hứa của các ông, theo chúng tôi, không phải một cách nghiêm túc để tiến hành đàm phán”, ông Lê Đức Thọ nói.

Tin cùng chuyên mục

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại buổi làm việc với Ban Thường vụ tỉnh Lào Cai.

Lào Cai cần khai thác tối đa lợi thế để sớm trở thành trung tâm du lịch, kinh tế cửa khẩu của vùng và cả nước

(PLVN) - Thủ tướng Phạm Minh Chính tin tưởng tỉnh Lào Cai sẽ sớm vươn lên trở thành trung tâm của vùng và cả nước về du lịch, kinh tế cửa khẩu, dịch vụ và công nghiệp; thuộc nhóm các tỉnh có thu nhập cao nhất cả nước; có không gian sinh thái, bản sắc, kết nối sáng tạo, là điểm đến yêu thích, thân thiện, hấp dẫn...

Đọc thêm

Chuyển đổi số trong Quân đội gắn với an toàn thông tin

Hội nghị triển khai nhiệm vụ về CĐS và thực hiện Đề án Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ CĐS quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06) trong Bộ Quốc phòng năm 2024. (Ảnh: mod.gov.vn)
(PLVN) - Chuyển đổi số trong Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là một xu thế tất yếu trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 mà còn là nhiệm vụ chiến lược, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Quân đội đã và đang triển khai đồng bộ các chính sách, giải pháp nhằm xây dựng lực lượng “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng yêu cầu quốc phòng trong kỷ nguyên số.

Hành trình bảo vệ chủ quyền không gian mạng trước thách thức thời đại

Thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, đồng chí Đại tá Vũ Hữu Hanh - PBTĐU, Tư lệnh Bộ Tư lệnh 86 trao Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba trao tặng Trung tâm 586. (Ảnh trong bài: Trung tâm 586)
(PLVN) - Không gian mạng là vùng “lãnh thổ đặc biệt” của quốc gia. Đấu tranh và bảo vệ chủ quyền không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng thiết yếu, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Đảng ta nhận định rõ: Nguy cơ xảy ra chiến tranh mạng, mất an ninh thông tin ngày càng tăng và đặt ra mục tiêu phải chủ động phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả chiến tranh mạng.

80 năm vẻ vang Quân đội nhân dân Việt Nam

Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 được nhân dân thế giới ngợi ca là “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. (Ảnh tư liệu: dangcongsan.vn)
(PLVN) - Ngày 22/12/1944, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam chính thức ra đời, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc. Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, QĐND Việt Nam không chỉ ghi dấu ấn trong những chiến công vang dội, mà còn tiếp tục là lực lượng tiên phong trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng!

Tổng Bí thư Tô Lâm trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 12/12/2024. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
(PLVN) - Thời gian qua, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo. Tình hình càng phức tạp, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng càng nặng nề, khó khăn càng nhiều hơn. Trong bối cảnh đó, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã và đang hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần quan trọng vào những thành tựu toàn diện của đất nước.

Diễn văn Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam

Diễn văn Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam
Sáng 20/12, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng, trọng thể tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024). Tổng Bí thư Tô Lâm, Bí thư Quân ủy Trung ương, dự và đọc Diễn văn tại Lễ kỷ niệm.

Lãnh đạo Đảng và Nhà nước viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 80 năm Ngày QĐND Việt Nam

Lãnh đạo Đảng và Nhà nước viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 80 năm Ngày QĐND Việt Nam
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944- 22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989- 22/12/2024), sáng 20/12/2024, tại Hà Nội, Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Quân ủy Trung ương – Quốc Bộ Quốc phòng đến đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nâng cao nhận thức quốc tế về tình hình nhân quyền ở Việt Nam

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ Đỗ Hùng Việt phát biểu chỉ đạo Hội thảo. Ảnh: BTC
(PLVN) - Ngày 19/12, Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ phối hợp với Báo Thế giới và Việt Nam tổ chức Hội thảo “Thông tin đối ngoại về quyền con người trong tình hình mới”. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ Đỗ Hùng Việt phát biểu chỉ đạo Hội thảo.

Thủ tướng chỉ đạo Bộ Công an 'vào cuộc' điều tra vụ cháy quán cà phê đường Phạm Văn Đồng

Hiện trường vụ cháy.

(PLVN) - Liên quan đến vụ cháy quán cà phê trên phố Phạm Văn Đồng (Hà Nội) khiến 11 người tử vong, Thủ tướng Phạm Minh Chính gửi lời thăm hỏi, chia buồn sâu sắc tới thân nhân, gia đình người bị nạn; đồng thời chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh tạo điều kiện tốt nhất để cứu chữa người bị thương trong vụ cháy; khẩn trương điều tra và xử lý nghiêm đối tượng vi phạm.