Mức sinh thấp – Già hoá nhanh: Thách thức kép “làm chậm” đà phát triển bền vững

Mức sinh thấp – Già hoá nhanh: Thách thức kép “làm chậm” đà phát triển bền vững
Mức sinh thấp đang kéo theo sự sụt giảm số lượng trẻ em sinh ra, dẫn đến thu hẹp quy mô lực lượng lao động trẻ trong vòng 15 đến 20 năm tới.

Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” nhưng chúng ta cũng đang trải qua giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học nhanh chóng, khi là trong một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Cùng với đó, là vấn đề ngại sinh đang ngày càng gia tăng của giới trẻ hiện nay. Với hai xu hướng song hành mức sinh giảm sâu và tốc độ già hóa dân số nhanh đang gây áp lực lớn cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong đó, nguy cơ "chưa giàu đã già" đòi hỏi những chính sách phù hợp, kịp thời đối với công tác dân số trong tình hình mới.

Trước hết là thách thức về mức sinh, theo Cục Dân số trong suốt gần 18 năm (2006-2022), mức sinh của Việt Nam giữ trạng thái tương đối ổn định xung quanh mức sinh thay thế. Tuy nhiên, trong 2 năm gần đây (2023-2024), mức sinh của Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu giảm nhanh hơn.

Đáng chú ý, mức sinh ở nông thôn vốn luôn cao hơn mức sinh thay thế do phụ nữ thường sinh nhiều con hơn, ảnh hưởng bởi phong tục tập quán, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa nhưng đã bắt đầu giảm mạnh trong hai năm gần đây và đã thấp hơn một chút so với mức sinh thay thế (năm 2023: 2,07 con/phụ nữ; năm 2024: 2,08 con/phụ nữ).

Theo số liệu của Cục Thống kê, mức sinh vào năm 2024 chỉ còn 1,93 con/cặp vợ chồng, riêng TP. Hồ Chí Minh là một trong những địa phương phát triển nhất nhưng mức sinh chỉ 1,39 con/cặp vợ chồng, thấp hơn nhiều so với mức chung. Số tỉnh có mức sinh dưới mức sinh thay thế cũng tăng nhanh, từ 22 tỉnh năm 2019 lên 32 tỉnh năm 2024, tập trung chủ yếu ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo các chuyên gia, mức sinh thấp tại Việt Nam chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như áp lực công việc, khó khăn tài chính, ưu tiên phát triển sự nghiệp và thay đổi nhận thức xã hội. Do đó, việc nâng mức sinh lên để đạt và duy trì mức sinh thay thế là “bài toán” rất khó, bởi ngay cả những quốc gia đầu tư rất lớn cũng chỉ đạt kết quả trong một giai đoạn ngắn.

Trên thế giới, một số nước càng phát triển thì mức sinh càng thấp, như Hàn Quốc hiện chỉ còn khoảng 0,68 con/cặp vợ chồng. Tại Trung Quốc mức sinh năm 2023 ghi nhận chỉ 1.09 con/cặp vợ chồng. Còn tại Nhật Bản mức sinh ở mức 1.26 con/cặp vợ chồng năm 2022, dữ liệu của Bộ Y tế Nhật Bản cho thấy, số lượng trẻ sơ sinh hàng năm giảm xuống mức thấp kỷ lục với 946.060 trẻ trong năm 2017, đứng dưới mức 1 triệu trẻ trong năm thứ 2 liên tiếp, trong khi tỷ lệ tử vong lại gia tăng và số lượng các cặp kết hôn cũng không cao. Sự sụt giảm nêu bật những khó khăn mà Nhật Bản đang phải đối mặt trong việc giải quyết các vấn đề về nhân khẩu học.

Ở khu vực nông thôn, phụ nữ thường sinh nhiều con hơn do kết hôn sớm, ảnh hưởng bởi phong tục tập quán, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, xu hướng giảm sinh ở nông thôn đang ngày càng rõ rệt. Theo kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024, chỉ số Tổng tỷ suất sinh (TFR) của khu vực nông thôn thì từ năm 2022 trở về trước mức sinh luôn cao hơn mức sinh thay thế nhưng từ 2 năm trở lại đây (2023 và 2024) mức sinh bắt đầu giảm mạnh và đã thấp hơn một chút so với mức sinh thay thế: năm 2023 là 2,07 con/phụ nữ; năm 2024 là 2,08 con/phụ nữ.

Thực trạng mức sinh thấp đang kéo theo sự sụt giảm số lượng trẻ em sinh ra, dẫn đến thu hẹp quy mô lực lượng lao động trẻ trong vòng 15 - 20 năm tới và gây ra những tác động không nhỏ, trực tiếp là giảm khả năng cạnh tranh quốc gia do thiếu hụt nhân lực tay nghề cao, đặc biệt trong các ngành công nghệ cao và sản xuất.

Việc mức sinh thấp cũng tác động và nguyên nhân dẫn đến tăng tốc độ già hóa dân số. Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn "già hóa dân số" từ năm 2011, và dự kiến sẽ chuyển sang giai đoạn "dân số già" vào khoảng năm 2038 nếu vẫn duy trì mức sinh thay thế.

Theo Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024, chỉ số già hóa năm 2024 là 60,2%, số lượng người già từ 60 tuổi trở lên là 14,2 triệu người, tăng 2,8 triệu người (tương ứng gấp 1,25 lần) so với năm 2019 và tăng 4,7 triệu người (tương ứng gấp 1,5 lần) so với năm 2014. Dự báo đến năm 2030, số người từ 60 tuổi trở lên sẽ xấp xỉ 18 triệu người, tăng gần 4 triệu người so với năm 2024. Tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đang tăng nhanh chóng, đặt ra nguy cơ cạn kiệt giai đoạn "cơ cấu dân số vàng" sớm hơn dự kiến.

Tốc độ già hóa dân số nhanh gây áp lực lớn cho y tế và các vấn đề an sinh xã hội.
Tốc độ già hóa dân số nhanh gây áp lực lớn cho y tế và các vấn đề an sinh xã hội.

Già hóa dân số sẽ tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội bao gồm: thị trường lao động, tài chính, nhu cầu về các hàng hóa, dịch vụ, giáo dục, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi... Tốc độ già hóa dân số nhanh gây áp lực lớn cho y tế và các vấn đề an sinh xã hội, đòi hỏi chuyển đổi chính sách bảo hiểm xã hội và phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe phù hợp với dân số già hóa.

Theo GS.TS Nguyễn Đình Cử - Chuyên gia Dân số và các vấn đề xã hội, nếu như nước Pháp mất 115 năm để tăng tỷ lệ người cao tuổi từ 10% lên 20%, thì Việt Nam chỉ mất khoảng 27 năm (từ 2011 đến 2038). Điều này khiến "thời gian chuẩn bị" về vật chất, tâm lý xã hội, an sinh và hệ thống chăm sóc người cao tuổi trở nên rất ngắn. Đến năm 2023, mới chỉ khoảng 13% người cao tuổi có lương hưu và trợ cấp từ bảo hiểm xã hội, dự báo đến năm 2060 cũng chỉ khoảng 38%. Vấn đề thu nhập thường xuyên và an sinh xã hội cho người cao tuổi vì thế trở nên cấp bách.

Cần ứng phó hiệu quả với già hóa dân số

Tiến sĩ Ngô Quỳnh An – Phó Trưởng khoa Kinh tế và Quản lý Nguồn nhân lực, Đại học kinh tế Quốc dân nhận định, vấn đề mức sinh thấp là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách thích ứng với già hóa dân số, và cần hoạch định chính sách để mức sinh được duy trì cũng như đảm bảo việc thích ứng với già hoá dân số để không tạo những gánh nặng tài chính lớn cho ngân sách.

Tiến sĩ Ngô Quỳnh An – Phó Trưởng khoa Kinh tế và Quản lý Nguồn nhân lực, Đại học kinh tế Quốc dân.
Tiến sĩ Ngô Quỳnh An – Phó Trưởng khoa Kinh tế và Quản lý Nguồn nhân lực, Đại học kinh tế Quốc dân.

Theo Tiến sĩ Ngô Quỳnh An, có 3 nhóm chính sách thích ứng già hóa dân số. Nhóm thứ nhất “Chính sách dân số” nhằm ổn định mức sinh thay thế và làm chậm xu hướng giảm sinh để giảm tốc độ già hóa. Can thiệp cần thực hiện trước khi tỷ suất sinh giảm dưới ngưỡng an toàn 1,5-1,8 con/phụ nữ. Chính sách điều tiết di dân giúp cân bằng dân số giữa các vùng, góp phần giảm tốc độ giảm sinh và giảm già hóa dân số. Nâng cao chất lượng dân số và tăng tuổi thọ khỏe mạnh giúp giảm áp lực chi phí khám chữa bệnh.

Nhóm thứ 2 “Chính sách dài hạn”, tận dụng thời kỳ cơ cấu dân số vàng, giảm thiểu nguy cơ già hóa năng lực sản xuất và các rủi ro về việc làm, thu nhập, sức khỏe của nhóm trẻ. Tạo cơ hội cho thế hệ người cao tuổi tương lai phát triển khỏe mạnh, giàu có và khuyến khích chuẩn bị cho tuổi già từ khi còn trẻ. Chính sách gồm: giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe, nâng cao tỷ lệ người có khả năng lao động, tăng tuổi nghỉ hưu, chính sách việc làm cho thanh niên, hưu trí bền vững và chăm sóc sức khỏe dài hạn. Trong bối cảnh Việt nam hiện nay, ở giai đoạn đầu của già hóa dân số, việc đầu tư vào chất lượng việc làm cho thế hệ trẻ là điều kiện tiên quyết cho già hóa thành công, vì việc làm và thu nhập tốt cho thế hệ trẻ hôm nay là tương lại cho bền vững thu nhập và chất lượng cuộc sống của thế hệ người cao tuổi tương lai.

Nhóm thứ 3 là “Chính sách đối với người cao tuổi”, tập trung cải tiến sản phẩm, dịch vụ kinh tế - xã hội trở nên thân thiện với người cao tuổi, tạo điều kiện để họ tiếp tục cống hiến và duy trì cuộc sống độc lập. Bao gồm chính sách việc làm cho người cao tuổi, phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông, nhà ở thân thiện.

Bên cạnh đó, những thách thức dân số trên cho thấy cần phải đảm bảo an ninh dân số - nền tảng quan trọng cho an ninh quốc gia thế kỷ 21. An ninh dân số không chỉ góp phần giữ vững an ninh quốc phòng mà còn đảm bảo năng lực cạnh tranh kinh tế, sức mạnh văn hóa và khả năng ứng phó với thách thức toàn cầu.


Việt Nam đạt nhiều thành tựu về dân số trong ba thập kỷ, tạo nền tảng phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao vị thế quốc tế. Tuy nhiên, thách thức mới như già hóa dân số nhanh, mất cân bằng giới tính khi sinh, hạn chế về chất lượng dân số và tác động của biến đổi khí hậu đến phân bố dân cư đặt ra yêu cầu mới. Để bảo đảm dân số phục vụ hiệu quả cho an ninh quốc gia, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ: duy trì quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, ứng phó với già hóa dân số, phát triển nhân lực quốc phòng-an ninh hiện đại, thực hiện di dân lao động bền vững và phát huy vai trò người Việt ở nước ngoài.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, đảm bảo an ninh dân số không chỉ là mục tiêu phát triển xã hội mà còn là chiến lược an ninh quốc gia dài hạn, đầu tư vào nền tảng vững chắc cho độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia.

Tiến sĩ Ngô Quỳnh An – Phó Trưởng khoa Kinh tế và Quản lý Nguồn nhân lực, Đại học kinh tế Quốc dân.
Hà Phương