Cụ thể, trong 10 ngày qua, tại khu vực Bắc Trung Bộ, mực nước thượng lưu các sông biến đổi chậm, trung lưu dao động theo điều tiết hồ chứa, hạ lưu biến đổi theo triều.
Lưu lượng dòng chảy trên sông Mã tại Cẩm Thủy thấp hơn trung bình nhiều năm cùng kỳ khoảng 22%, sông Cả tại Yên Thượng thấp hơn khoảng 42%, sông Ngàn Phố tại Sơn Diệm thấp hơn khoảng 52%, sông Ngàn Sâu tại Hòa Duyệt thấp hơn khoảng 36%,
Tình hình hồ chứa, mực nước các hồ thủy điện trong khu vực thấp hơn mực nước dâng bình thường từ 2,75-8,2m. Dung tích các hồ đạt từ 78- 94% dung tích hồ như hồ Bản Vẽ thấp hơn mực nước dâng bình thường khoảng 5,02m, đạt 88% dung tích hồ; hồ Hủa Na thấp hơn khoảng 1,82m, đạt 94%; hồ Trung Sơn thấp hơn khoảng 2,75m, đạt 90%; hồ Cửa Đạt thấp hơn 8,2 đạt 78%.
Dự báo trong 10 ngày tới, mực nước thượng lưu các sông biến đổi chậm, trung lưu dao động theo điều tiết hồ chứa, hạ lưu biến đổi theo triều. Lưu lượng dòng chảy trong 10 ngày tới trên các sông ít biến đổi.
Tại Trung Trung Bộ, trong 10 ngày qua, mực nước trên thượng lưu các sông từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi có dao động, hạ lưu biến đổi chậm.
Lưu lượng dòng chảy trên sông Tả Trạch (Thừa Thiên Huế), sông Thu Bồn (Quảng Nam) và sông Trà Khúc (Quảng Ngãi) cao hơn trung bình nhiều năm cùng kỳ từ 113-138%.
Tình hình hồ chứa, mực nước các hồ thủy điện vừa và lớn trong khu vực phổ biến ở mức thấp hơn từ 0,2-0,4m đến xấp xỉ mực nước dâng bình thường. Dung tích các hồ phần lớn đạt từ 95-100%
Dự báo trong 10 ngày tới, mực nước trên các sông trong khu vực biến đổi chậm.
Tại khu vực Nam Trung Bộ trong 10 ngày qua, mực nước trên các sông biến đổi chậm, riêng hạ lưu sông Ba dao động theo điều tiết của thủy điện và thủy triều.
Lưu lượng dòng chảy trên các sông từ Bình Định đến Khánh Hoà phổ biến cao hơn từ 80-145%, riêng sông Luỹ tại trạm Sông Luỹ ở mức xấp xỉ trung bình nhiều năm và sông La Ngà tại Tà Pao thấp hơn 69% so với trung bình nhiều năm.
Tình hình hồ chứa, mực nước các hồ chứa thuỷ điện vừa và lớn khu vực Nam Trung Bộ phổ biến ở mức thấp hơn mực nước dâng bình thường từ 0,1-0,5m, một số hồ ở mức xấp xỉ mực nước dâng bình thường. Dung tích hiện tại của các hồ chứa thuỷ điện khu vực Nam Trung Bộ phổ biến đạt mức từ 93-100% dung tích hồ chứa.
Dự báo trong 10 ngày tới, mức nước trên các sông biến đổi chậm với xu thế xuống dần, hạ lưu sông Ba dao động theo điều tiết của thủy điện và thủy triều.
Tại Tây Nguyên trong 10 ngày qua, mực nước trên các sông phổ biến dao động theo điều tiết của hồ thủy điện, riêng sông Krông Ana biến đổi chậm theo xu thế xuống dần.
Lưu lượng dòng chảy trên sông Đăkbla tại Kon Tum thấp hơn trung bình nhiều năm cùng kỳ 52,4%, trên sông Srêpôk tại Giang Sơn cao hơn trung bình nhiều năm cùng kỳ khoảng 53,7%.
Tình hình hồ chứa, mực nước hiện tại các hồ thủy điện phổ biến thấp hơn mực nước dâng bình thường từ 0,1-1,2m, đạt từ 90-100% dung tích hồ.
Dự báo trong 10 ngày tới, mực nước các sông phổ biến dao động theo điều tiết của hồ chứa, sông Krông Ana biến đổi chậm theo xu thế xuống dần.
Tại Nam Bộ, trong 10 ngày qua, mực nước sông Đồng Nai biến đổi chậm. Mực nước sông Cửu Long biến đổi chậm theo triều. Mực nước cao nhất tuần trên sông Tiền tại Tân Châu 1,82m (03/01), trên sông Hậu tại Châu Đốc 1,95m (03/01).
Dự báo trong 15 ngày tới, mực nước sông Đồng Nai biến đổi chậm. Mực nước sông Cửu Long biến đổi chậm theo triều. Mực nước cao nhất tuần tại Tân Châu ở mức 1,45m, tại Châu Đốc ở mức 1,55m. Trong 5 ngày tiếp theo, mực nước sông Cửu Long biến đổi theo triều.