Một thời học làm báo...

Thời gian chuẩn bị cho chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968, Báo Giải phóng Quảng Đà là một bộ phận của Ban Tuyên huấn Quảng Đà, như là bộ phận Tuyên truyền, Văn nghệ, Giáo dục… Là những ngày sôi sục, khẩn trương nhất, cũng là những ngày trên chiến trường Quảng Đà đội nhiều nhất những quả bom tọa độ.

Thời gian chuẩn bị cho chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968, Báo Giải phóng Quảng Đà là một bộ phận của Ban Tuyên huấn Quảng Đà, như là bộ phận Tuyên truyền, Văn nghệ, Giáo dục… Là những ngày sôi sục, khẩn trương nhất, cũng là những ngày trên chiến trường Quảng Đà đội nhiều nhất những quả bom tọa độ.

Các cán bộ, nhân viên Báo Giải phóng và Ban Tuyên huấn Quảng Đà tại căn cứ ở vùng núi Xuyên Trà, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam năm 1972. (Ảnh do Nhà báo Dương Đức Quảng chụp). 

Một buổi sáng 24-1-1968, Đoàn Văn công Quảng Đà đang tập các tiết mục mới ở thôn Tư Phú - Gò Nổi để biểu diễn đón Xuân, mừng chiến thắng thì bị một quả bom tọa độ giữa ban ngày, cướp mất cả bộ phận chủ yếu của Đoàn gồm nhạc sĩ Tân Nhân trưởng đoàn và 7 diễn viên trẻ, giỏi nhất. Nhạc sĩ Văn Cận là người của Văn nghệ Khu 5 về giúp Quảng Đà huấn luyện và dàn dựng tiết mục cho Đoàn, anh đã có các ca khúc Đánh giặc giữ làng, Giữ trọn tình quê, anh đã hoàn thành ca khúc nổi tiếng Giành chính quyền về tay nhân dân, đang tập anh em hát thì bị một mảnh bom gục xuống.

Diễn viên Nguyễn Văn Tỷ bị một mảnh bom vào mông làm cho chân Tỷ gần rơi ra. Cô văn công Lan, khá xinh, người yêu của Tỷ, bị một mảnh vào mắt, máu chảy dầm dề, mặt mày trắng nhợt. Dường như biết mình không thể sống vì vết thương quá nặng không tài nào cầm máu được, tỉnh như người sắp từ giã cõi đời, Tỷ nắm bàn tay Lan thì thào: "Em đừng lo, anh không sao đâu". Tỷ quay nhìn anh chị em, hỏi: "Anh em chết mấy người?". Không ai mở miệng trả lời cho Tỷ biết con số 9 khủng khiếp vừa giáng xuống Đoàn văn công non trẻ với nhiều tài hoa chớm nở. Một lúc sau, Tỷ nằm bất động bên chiếc đàn ghi-ta, chiếc đàn mà lúc nào bước lên sân khấu, Tỷ cũng mang theo. Anh sô lô bên cây đàn trông thật duyên.

Trước đó 9 tháng, ngày 4-6-1967, trên vùng đất Tây Duy Xuyên, nghệ sĩ múa nổi tiếng Phương Thảo, đẹp như thiên nga giữa chiến trường đầy bom đạn, bị một mảnh cối vu vơ từ đồn Kiểm Lâm bắn vào lúc trời sắp tắt nắng, mấy phút sau thì chị tắt thở đã làm bàng hoàng không biết bao nhiêu người, kể cả những người dân Điện Hồng, Xuyên Lộc, Xuyên Thanh, nơi mà Đoàn Văn công Quảng Đà đã đến công diễn cho bà con xem. Họ tiếc đứt ruột, cứ hỏi tại sao giặc Mỹ lại giết chết một cô gái đẹp, tài hoa, dễ thương như vậy?

Khốc liệt không ngừng giáng xuống những con người làm công tác tuyên truyền, văn nghệ, báo chí... Sau thiệt hại nặng nề của Đoàn Văn công, quân số cấp tốc bổ sung đang tập luyện để đi công diễn cho kịp chiến dịch lớn sắp nổ ra, thì phóng viên Dương Tấn Nhường hy sinh. Không lâu sau, đến lượt phóng viên Đỗ Nhung hy sinh, rồi đến nhà báo Nguyễn Trọng Định hy sinh - anh Định là một phóng viên trẻ, biết làm thơ, vừa chi viện từ miền Bắc vào cho Báo Quảng Đà, một tờ báo địa phương với quân số đếm trên đầu ngón tay: Trần Văn Anh, Hồ Hải Học, Hoàng Kim Tùng, Hữu Mười, Hoài Hà, Đoàn Xoa, Đỗ Kỳ...

Trên chiến trường đầy khốc liệt vào loại số 1 ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ lại rất hấp dẫn các nhà văn, nhà báo như Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Chu Cẩm Phong, Bùi Minh Quốc, Dương Thị Xuân Quý, Dương Đức Quảng, Nguyễn Đình An... Máu của người làm báo chân chính là biết xông pha, đến với những điểm nóng bỏng để khai thác tư liệu và tìm cảm hứng. Các anh, các chị đã đến với Quảng Đà, góp sức và tài hoa của mình cho các trang báo, trang văn nghệ thêm hấp dẫn, sinh khí. Trước đêm Tết Mậu Thân, nhà thơ Thu Bồn đã sáng tác bài thơ Đà Nẵng gọi ta, một trong những bài thơ được viết nhanh nhất, in nhanh nhất, phát hành nhanh và nhiều đến tay các chiến sĩ Tiểu đoàn 19-5 (R.20), mũi tiến công chủ yếu vào quân đoàn 1 ngụy trước giờ khai hỏa. Không chỉ có các nhà báo, nhà văn đi theo chiến dịch mà một bộ phận in báo cõng nặng đồ đoàn cũng ra phía trước. Theo lệnh của Đặc khu ủy, Nhà in tách ra một bộ phận gọn nhẹ mà in ấn được nằm tại Bảo An Tây-Gò Nổi. Nhờ vậy, bài thơ Đà Nẵng gọi ta vừa viết xong, các anh Tuyên huấn đọc thấy hay là đưa đến nhà in, in ngay trong đêm. Thu Bồn đã nói được tiếng lòng của bao nhiêu người, mang theo hơi thở và nhịp đập trái tim người chiến sĩ cách mạng đến với nhân dân đất Quảng, nhân dân Đà Nẵng:

Đà Nẵng gọi ta như người mẹ gọi con

Như người yêu gọi người yêu xa cách

Gò Nổi là một địa bàn để áp sát, tấn công Đà Nẵng nên rất ác liệt. Các trận địa pháo của địch từ Bồ Bồ, An Hòa, Cẩm Hà thay nhau bắn. Bắn ngày, bắn đêm, bắn từng bầy, bắn từng đợt, bắn cầm canh... Rợn người là tiếng gầm của pháo hải quân Mỹ 410 ly từ tàu Giuxơri ngoài biển bắn từng đợt, nổ như bom tấn, rung đất, rung hầm. Loại pháo tàu cũng khó chịu và đầy đe dọa như bom tọa độ. Căn nhà anh chị Phụng, nơi anh Trần Văn Anh và Hồ Hải Học ở và hầm của nhà chị Bình, nơi anh Nguyễn Đình An và Hoàng Kim Tùng ở cách nhau chừng 300 mét, mà muốn qua lại đưa bài vở, trao đổi công việc cũng phải chờ sau một loạt bom tọa độ rồi mới cắm cổ chạy sang. Người ta bảo, máy bay thả bom tọa độ một loạt 5 đến 6 quả, còn tàu Giuxơri bắn một lúc 16 quả. Có ngày tàu Giuxơri bắn 60 quả lên đất Gò Nổi và vùng ven sông Thu Bồn. Ngày nào cũng có hầm sập, người chết, người bị thương, tiếng kêu cứu liên tục. Những người dân kiên cường trên đất giải phóng không còn nơi yên ổn để trồng tỉa. Nhà cửa tan hoang. Dần dần, họ phải di dời ra xa nơi ác chiến để lánh đạn và cũng để bảo toàn lực lượng. Mức độ bom đạn ác liệt tăng theo tỷ lệ nghịch với số dân bám trụ, chỉ còn lại một số gia đình, một số cá nhân đủ sức chịu đựng, kiên cường đội bom, kiên cường bám trụ dù biết cái chết luôn rình rập. Lúc bấy giờ bà con bám trụ, dưới mắt anh em chúng tôi không là người dân bình thường mà là những chiến sĩ cách mạng, là chỗ dựa tinh thần của cách mạng. Điều đẹp hơn là bà con đã cho bọn tội phạm chiến tranh thấy rằng, dù chúng ra tay hủy diệt, thì đất này vẫn còn mầm sống!

Những ngày cuối năm 1968, chỉ cần dời cơ quan ra xa tọa độ bom thì có thể bớt ác liệt, đỡ căng thẳng thần kinh, giảm bớt thương vong. Vậy mà, các xóm dân kiên cường này vẫn còn những con người bám trụ với tinh thần "một tấc không đi, một ly không rời", thế là các nhà báo cũng bám trụ với dân, cùng đội ác liệt với dân để kịp thời cung cấp cho dân những tin chiến thắng, những gương chiến đấu, bám trụ, đấu tranh trực diện với kẻ thù cho đến khi gia đình Sáu Khòm chết gần hết. Chị Bình, chị Xuân, chị Ngôn, chị Phụng, chị Hai Thinh, chị Bảy Ui, bà Bảy Giai chạy ra vùng ven, khu dồn, ra Đà Nẵng. Hố bom nối tiếp hố bom, địch cho xe cày ủi, cày đi cày lại, xúc hết không còn người dân nào, anh em nhà báo theo du kích rúc vào bãi bói, chịu cảnh "mồ côi dân".

Họ đi rồi, tìm đâu ra tô mì Quảng đơn sơ mà ngon miệng của bà Bảy Giai, chỉ còn biết ngâm nga lại câu ca của anh em ghiền mì Quảng ứng khẩu mà thành:

Đã đến đây rồi các bạn ơi!

Nồi nhưn nước đã sục sục sôi

Chị Bảy xắn quần lau chén đũa

Rửa tay, quệt mũi... múc cho tôi...

Đi đâu cũng nhớ đĩa lòng heo nóng hổi buổi sáng của chị Hai Thinh, thèm bát bún tươi chan nước mắm ớt tỏi của chị Phụng...

Nay, xa lắm rồi, vẫn nhớ một thời tôi học làm báo mà nhiệm vụ chính là lo cho có gạo, có mắm, ngày nào cũng lo chạy càn tránh bom, trách địch…

Hồ Duy Lệ