“Một môn học”… ba thầy?

Học sinh THPT sẽ học  ba thầy cô/1môn học.Ảnh minh họa.
Học sinh THPT sẽ học ba thầy cô/1môn học.Ảnh minh họa.
(PLO) - Trong chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới, tích hợp môn Khoa học Tự nhiên xây dựng như thế nào? Việc dạy học tích hợp được triển khai ra sao? Giáo viên có kịp thay đổi?... là những câu hỏi “nóng” mà dư luận đang quan tâm. PGS.TS Mai Sỹ Tuấn, thành viên Ban Phát triển chương trình GDPT đã có những trao đổi về vấn đề này…

Học sinh có “bội thực” kiến thức?

Thưa ông, tại sao môn Khoa học Tự nhiên (KHTN) là môn học tích hợp ở cấp THCS, thay vì các môn học riêng biệt như truyền thống?

- Kinh nghiệm quốc tế cũng như thực tiễn Việt Nam cho thấy dạy học tích hợp giúp cho việc học tập của học sinh gắn liền với thực tiễn hơn, giúp học sinh phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết, khả năng tổng hợp kiến thức, kỹ năng… thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, nhất là năng lực giải quyết vấn đề.

Như chúng ta đã biết, tính thống nhất trong giáo dục khoa học tự nhiên được thể hiện ở cả đối tượng, phương pháp nhận thức, những nguyên lý và khái niệm cơ bản. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn học tích hợp được thực hiện chủ yếu ở cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở. Ở cấp tiểu học, môn học có tên Tự nhiên và Xã hội và môn Khoa học, lên cấp THCS phát triển thành môn KHTN, ở cấp THPT, KHTN được chia ra thành các môn học riêng rẽ là Vật lý, Hoá học và Sinh học.

Như vậy, xu hướng tích hợp trong chương trình giáo dục mới của chúng ta lần này là tích hợp sâu ở lớp dưới và phân hoá dần ở các lớp trên. Trên thế giới có nhiều nước dạy môn “KHTN” ở cấp THCS (chẳng hạn như ở Anh, Thụy Sỹ, Xứ Wales, Australia, New Zeanld, Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, nhiều bang ở Mỹ…).

Nội dung kiến thức của Vật lý, Hóa học, Sinh học liên kết với nhau thông qua các nguyên lý và khái niệm chung của tự nhiên. Bên cạnh đó, chương trình tích hợp còn thuận lợi trong việc thiết kế một số chủ đề tích hợp như chủ đề về biến đổi khí hậu, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên... Ngoài ra, việc xây dựng môn KHTN tránh được trùng lặp kiến thức được dạy ở nhiều môn học, nhờ đó phù hợp với thời gian học của học sinh trong nhà trường hiện nay.

Yêu cầu đặt ra với môn KHTN là xây dựng chương trình môn học và viết sách giáo khoa vừa đủ đáp ứng yêu cầu của phát triển đất nước trong giai đoạn của cuộc cách mạng 4.0. Để thực hiện điều đó, chương trình đã được xây dựng theo hướng nào? Học sinh có bị “bội thực” kiến thức?

- Về thời lượng, không tăng thời lượng dạy học. Chương trình được xây dựng cả cấp học là 560 tiết chiếm 12% tổng số giờ của tất cả các môn học. So với chương trình của các nước, môn KHTN chiếm từ 11 đến 14%, thì môn học của chúng ta là ở mức trung bình. So với chương trình hiện hành (tổng số 3 môn Vật lý, Hóa học và Sinh học là 595 tiết) thì chương trình lần này có ít đi đôi chút nhưng không nhiều.

Về nội dung, môn KHTN có thay đổi làm cho chương trình nhẹ hơn và hấp dẫn hơn đối với người học do môn KHTN không đi sâu mô tả các đối tượng mà đi thẳng vào chức năng và ý nghĩa ứng dụng thực tiễn của chúng, làm cho nội dung có ý nghĩa thực tiễn và gần gũi với cuộc sống hơn. Ví dụ, khi học về thực vật học, chương trình không tập trung vào mô tả cấu trúc của các cơ quan thực vật mà tập trung vào chức năng hoạt động và ý nghĩa thực tiễn của các cơ quan, hệ cơ quan.

Khi học về hoá học, vật lý và sinh học, các khái niệm, định luật... được tiếp cận theo phương pháp làm nổi rõ bản chất, ý nghĩa khoa học, tránh khuynh hướng làm cho chương trình nặng hơn (tránh nặng về vận dụng toán học trong các môn khoa học, tránh thực hiện các bài tập lắt léo).

Chương trình mới giảm nội dung trùng lặp giữa các môn học Vật lý, Hoá học và Sinh học. Ví dụ, nội dung protit, lipit, gluxit đã dạy trong kiến thức hoá học thì sẽ không cần dạy trong kiến thức sinh học nữa; Khái niệm vật chất đã dạy trong nội dung Hoá học sẽ không cần dạy trong nội dung Vật lý nữa; Chủ đề về năng lượng trước đây được dạy riêng trong từng môn nay được tích hợp chung trong một chủ đề; Chủ đề nước trong tự nhiên trước đây được dạy cả ở Hoá học và Vật lý nay được dạy chung trong môn KHTN.

Thầy cô chia theo mạch nội dung

Một số ý kiến tỏ ra băn khoăn về việc “một môn ba thầy” sẽ dẫn tới việc thừa GV ở các môn học. Theo ông, nên bố trí GV Vật lý, Hóa học, Sinh học trong môn học mới như thế nào?

- Trước hết cần khẳng định, nội dung giáo dục và hình thức tích hợp trong chương trình môn KHTN về cơ bản không làm thay đổi lớn số lượng GV hiện nay. Thời lượng dạy môn KHTN 4 tiết/ tuần, 140 tiết/ năm học và tổng số tiết của cả cấp học là 560 tiết. Như vậy thời lượng không có thay đổi nhiều so với chương trình hiện hành nên không làm dư thừa số GV hiện nay hay làm thiếu hụt GV.

Giáo viên dạy các môn Vật lý, Hóa học và Sinh học hiện nay có thể tham gia dạy học môn KHTN được ngay. Đó là do chương trình môn học lựa chọn hình thức tích hợp phù hợp với khả năng dạy học của GV và điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.

Mức độ tích hợp liên môn, nghĩa là tích hợp nhưng vẫn giữ các mạch nội dung gần với mạch kiến thức của Hóa học, Vật lý hay Sinh học. Các nội dung được sắp xếp gần nhau theo từng mạch nội dung hỗ trợ cho nhau theo nguyên lý của tự nhiên. Ví dụ, khi học về chất trong Hóa học thì theo mạch nội dung học sinh sẽ được học luôn về chất trong Sinh học như chất tế bào.

Việc vẫn giữ các mạch nội dung gần với mạch kiến thức của Hóa học, Vật lý hay Sinh học sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phân công GV dạy học. Ít nhất, GV môn nào vẫn dạy được mạch nội dung liên quan đến môn của mình đang dạy học.

Cụ thể như, GV Hóa học sẽ rất thuận lợi khi dạy về mạch nội dung “Chất và sự biến đổi của chất”, GV Sinh học sẽ thuận lợi khi dạy về mạch nội dung “Vật sống”. Tương tự, GV Vật lý sẽ thuận lợi khi dạy về mạch nội dung “Năng lượng và sự biến đổi vật lý”.

Ông có khuyến cáo gì với các nhà trường cũng như GV để triển khai dạy được môn KHTN ở các cấp học?

- Từ nay đến khi thực hiện môn KHTN (lớp 6) ít nhất còn 3 năm nữa, đây là thời gian các trường sư phạm tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ GV dạy môn KHTN để có thể dạy tốt môn học.

Những GV có khả năng ngoài việc tập huấn dạy nội dung chuyên môn của mình dần dần sẽ được đào tạo theo cơ chế tín chỉ để có thể đảm nhận thêm những nội dung mới mà mình chưa được đào tạo trước đây.

KHTN là một môn học, không phải 3 môn học riêng rẽ cộng lại một cách cơ học nên hoạt động chuyên môn trong nhà trường cần bố trí lại theo hướng một môn học, GV trong tổ bộ môn KHTN hỗ trợ lẫn nhau những nội dung và chủ đề tích hợp. Ngoài ra, do môn học cần tăng cường hoạt động thực hành và trải nghiệm, nên GV cần phải bỏ nhiều công sức chuẩn bị hơn.

Trân trọng cám ơn ông!

Tin cùng chuyên mục

Thủ tướng Phạm Minh Chính vui mừng chào đón các nhà giáo tiêu biểu năm 2024 tại trụ sở Chính phủ. (Ảnh: MOET)

Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045: Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế về giáo dục

(PLVN) - Phát triển giáo dục Việt Nam hiện đại, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn minh nhân loại, phát triển toàn diện con người Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới… Chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, phát huy tối đa tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, tạo nền tảng cho việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đất nước phồn vinh và hạnh phúc…

Đọc thêm

Các trường 'điểm' tuyển sinh ra sao khi bỏ thi tuyển vào lớp 6?

Ảnh minh họa
(PLVN) - Theo Bộ GD&ĐT, từ 2025, tuyển sinh THCS sẽ được thực hiện theo phương thức xét tuyển. Đối với các trường chất lượng cao, trường tư có tỷ lệ chọi lớn, địa phương có trách nhiệm hướng dẫn các trường thực hiện dựa vào tình hình thực tế trên cơ sở phù hợp nhất.

Giáo dục thích ứng trong kỷ nguyên số

Phụ huynh, học sinh, người lao động cần tìm hướng đi đúng đắn. (Ảnh minh họa - Nguồn: Hocmai)
(PLVN) - Sự bùng nổ của công nghệ, đặc biệt là AI đang định hình lại môi trường làm việc một cách nhanh chóng và nhu cầu về những kỹ năng mới cũng ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030: Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực

Ảnh minh họa
Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030 đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có hệ thống giáo dục tiên tiến trong khu vực châu Á. Với trọng tâm phát triển toàn diện con người, nâng cao chất lượng giáo dục ở mọi cấp và đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chiến lược này đặt nền móng vững chắc cho một xã hội hiện đại, công bằng và văn minh.

Nhìn lại những quyết sách phát triển giáo dục năm 2024

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn trao đổi về dự thảo Luật Nhà giáo tại Quốc hội. (Ảnh: MOET )
(PLVN) - Xây dựng dự thảo Luật Nhà giáo, thúc đẩy chuyển đổi số đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hoàn thành chu trình đầu của chương trình giáo dục phổ thông (CT GDPT) 2018, kết thúc kỳ thi cuối cùng của CT GDPT 2006... là những dấu ấn nổi bật của ngành Giáo dục năm 2024 vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) công bố.

Đi học… hạnh phúc

Cô giáo xuất hiện trong bức ảnh đẹp nhất mùa khai giảng. (Ảnh: NVCC)
(PLVN) - “Người thấy được hạnh phúc của việc học sẽ làm được nhiều việc lớn lao” - là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn tại Hội thảo “Hạnh phúc trong giáo dục 2024” do Viện Nghiên cứu Giáo dục và Phát triển Nhân lực (EDI) tổ chức.

Những vật dụng cấm mang vào phòng thi tốt nghiệp THPT 2025

Thí sinh tham dự kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 (Ảnh: PV)
(PLVN) - Bộ Giáo dục và Đào tạo mới ban hành Thông tư số 24/2024/TT-BGDĐT ngày 24/12/2024 về Quy chế thi tốt nghiệp trung học phổ thông, trong đó có quy định rõ về trách nhiệm của thí sinh và những vật dụng không được phép mang vào phòng thi.

Đối tượng nào được miễn thi tốt nghiệp THPT 2025?

Thí sinh tham dự kỳ thi tốt nghiệp THPT 2024 (Ảnh: PV)
(PLVN) - Thông tư số 24/2024/TT-BGDĐT ngày 24/12/2024 về quy chế thi tốt nghiệp THPT 2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo có quy định rõ những đối tượng được miễn thi tất cả các môn, miễn thi Ngoại ngữ, miễn thi Ngữ văn trong xét công nhận tốt nghiệp THPT...

Lời hẹn ước xúc động của “ông nội” ở Làng Nủ

Thầy Khang chụp ảnh cùng 22 "cháu nội". (Ảnh: Vietnamnet)
(PLVN) -  Trong chuyến hành trình vượt gần 300km đến Làng Nủ (Lào Cai), thầy Nguyễn Xuân Khang, Chủ tịch Hội đồng Trường Marie Curie, đã mang theo không chỉ trái tim tràn đầy tình yêu thương mà còn có một lời hẹn ước đặc biệt. Khoảnh khắc gặp gỡ tại ngôi làng mới được tái thiết, không chỉ chứng kiến những giọt nước mắt hạnh phúc mà còn mở ra một trang mới trong “cuốn sách cuộc đời ” của 22 đứa trẻ may mắn được ông yêu thương và bảo bọc.