Đào giếng trong bóng tối
Căn nhà của anh Ksor Gih nằm giữa rẫy cà phê ở cuối làng Tuơh Klah. Bước vào trong, ai cũng ngạc nhiên bởi chủ nhân là một người mù nhưng mọi vật dụng trong nhà đều gọn gàng, ngăn nắp. Căn nhà được xây năm 2012 từ số tiền anh dành dụm, tích cóp bao nhiêu năm đào giếng và một phần tiền hỗ trợ bên hội người mù.
“Dù bị mù nhưng anh Gih biết làm đủ mọi việc như một người bình thường. Đến như việc đào giếng, người lành lặn bình thường chưa chắc làm được, nhưng giếng khắp làng này đều nhờ anh Gih đào hết. Người làng ai cũng yêu mến anh Gih bởi anh hiền lành, tốt bụng, ai nhờ gì cũng sẵn sàng giúp đỡ”, Trưởng làng Tuơh Klah Ksor Dăm An mở đầu câu chuyện.
Tuổi thơ của anh Gih là những chuỗi ngày buồn bã. Khi mới sinh ra, anh đã bị mù. Cuộc sống gia đình nghèo khó nên anh càng chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh. Đến năm 15 tuổi, cha đi lấy vợ khác, rồi mẹ cũng bỏ đi, Gih trở thành đứa trẻ mồ côi, gần như bị bỏ rơi, phải sống dựa vào tình thương của bà con dân làng. Ai cho gì ăn nấy, bạ đâu ngủ đấy.
Một năm sau, ở tuổi 16, trong khi bạn bè cùng trang lứa được cắp sách đến trường thì Gih lại phải tự mò mẫm trong bóng tối để kiếm cơm với đôi mắt chẳng thể thấy gì ngoài màu đen. Anh được người làng dựng cho cái chòi nhỏ ngoài rừng thông ở. Hàng ngày, anh xuống suối, mò cua bắt ốc đổi lấy gạo và thức ăn.
2 năm sau, thấy nhiều người đi đào giếng, anh Gih xin đi theo. Anh được giao việc phụ quay đất người ta đào giếng lên. Từng gàu đất được anh quay nhanh chóng khiến người đào phía dưới ngạc nhiên bởi sức khỏe của chàng thanh niên dáng nhỏ thó. Từ đó, anh đi theo làm thuê kiếm sống qua ngày bằng nghề phụ giúp cho các phu giếng.
Năm 22 tuổi, anh được người làng hỗ trợ trồng cà phê trên chính mảnh đất của mình. Lúc ấy, không có nước và cũng không có tiền thuê thợ đào giếng nên anh nghĩ đến việc tự mình đào giếng lấy nước tưới cây.
Sau khi đi quanh vườn, rờ rẫm từng hòn đất, anh Gih quyết định tự đào giếng. Anh dùng chính đôi tay của mình để làm thước đo. Khi xác định được vị trí cần đào, anh ngồi xuống lấy cơ thể mình làm trọng tâm và giơ 2 cánh tay ra xoay một vòng để ước lượng đường kính của cái giếng.
Khi đã ước lượng được diện tích miệng giếng, anh bắt đầu đào sâu xuống, chỉ với công cụ là chiếc xà beng. Vừa đào anh vừa dùng bàn chân để đo khoảng cách, đôi tay mò mẫm để định hình. Cứ thế, vừa đào đất anh vừa tự đu dây lên quay từng gàu đất mang đổ đi.
Ngày hay đêm đối với anh không quan trọng, cứ nghỉ lấy sức, rồi anh lại xuống giếng. Chỉ đến khi những dòng nước bắt đầu tràn dần lên, anh mới phải nhờ hàng xóm kéo đất lên vì không thể làm một mình.
Khi mọi người tới nơi, không ai tin vào mắt mình bởi chiếc giếng sâu khoảng 30m mà anh đào thẳng tắp, tròn vành vạnh, tràn trề nước. Cả làng thán phục biệt tài đào giếng của anh. Thế là Gih có thừa nước dùng, tưới cho hơn 300 cây cà phê trong vườn. Từ đó đến nay, dù có những năm mùa khô khốc liệt nhưng giếng chưa bao giờ cạn nước.
Tiếng đồn về chàng thanh niên mù đào giếng giỏi bắt đầu lan xa. Từ đó, mùa khô đến, dân làng lại tìm đến nhờ Gih đào giếng, vét giếng. Những khu vực xa cả vài chục cây số, người dân cũng tìm đến bởi anh đào giếng nào cũng có nước ngay, tiền công lại rẻ hơn người khác. Rồi anh trở thành phu giếng nức tiếng ở làng, ở xã.
Có lúc anh thuê thêm người để quay đất từ dưới lên, có lúc người nhà thuê đào giếng múc đất lên, còn việc xuống giếng là của anh. Một mình cứ lần mò đào xuống dưới. Điều đặc biệt, anh dùng cảm nhận của các giác quan để tìm mạch nước.
“Gần 20 năm, sau ngày đào cái giếng ở vườn, đến nay, tôi đào được 38 cái khác trong làng, còn ở các nơi khác thì khoảng 40 cái nữa. Tôi sống bằng nghề này nên phải đào thôi. Đào giếng thì mới có cơm ăn chứ. Lúc mới đào, nhất là khi vận chuyển đất lên, tôi hay bị đập vào thành giếng nên tay chân, mặt mũi lúc nào cũng bầm tím hết cả. Nhưng đào lâu rồi cũng quen, giờ không đào thì thấy khó chịu ngứa ngáy chân tay lắm”, anh Gih vừa nói vừa cười.
Mơ ước có một gia đình
Khi nghe chúng tôi nhắc đến chuyện gia đình, gương mặt anh Gih bỗng chùng xuống, buồn buồn. Bởi lâu nay, anh tự mò mẫm với bóng tối, thui thủi một mình trong căn nhà nhỏ cuối làng.
Hỏi có người thân đến chơi không, anh ngồi thần người ra rồi lắc đầu, bảo: “Từ ngày cha mẹ bỏ đi, tôi không biết đến người thân họ hàng gì cả. Ở đây, tôi có dân làng, có chính quyền quan tâm giúp đỡ nên cũng không buồn lắm. Dân làng tốt bụng, mỗi lần đau ốm đều nhờ dân làng giúp đỡ”.
Nói rồi, anh Gih tâm sự: “Cuộc sống với tôi như vậy là khá ổn rồi, nhưng nhiều lúc nghe tiếng trẻ con nô đùa, tôi lại nhớ về gia đình, nhớ cha mẹ lắm. Lúc trước tôi cũng trách cha mẹ bỏ tôi, nhưng nay thì hết rồi.
Bây giờ, tôi cũng muốn có vợ, có con, có một gia đình thật sự để được ăn những bữa cơm ngon, chứ không phải lang thang nay đây mai đó như hiện tại. Tôi muốn sau những giờ đi làm về có người để trò chuyện, tâm sự chứ không phải lủi thủi một mình. Nhưng có lẽ điều đó rất khó…”.
Theo ông Nguyễn Kim Anh - Chủ tịch UBND xã Glar, nghề đào giếng công việc tưởng chừng như một người bình thường cũng khó có thể làm được thì với anh Gih, mặc dù không nhìn thấy đường nhưng trong vòng gần 20 năm, anh đã đào gần 100 cái giếng cho người dân lấy nước sinh hoạt và tưới cà phê. Dân làng ai cũng thương anh Gih, bởi anh không rượu chè, ham chơi hay ỷ lại là người khuyết tật mà còn làm tốt, làm giỏi hơn nhiều người bình thường.