Mẹ tôi
Những khi rỗi rãi, sáu anh em tôi quây quanh cái võng nghe mẹ tôi kể chuyện ngày xửa này xưa. Nói là ngày xưa để hình dung ra cảnh xa lơ xa lắc, chứ thực chỉ là cái thời mẹ về làm dâu nhà ông bà tôi. Mẹ tôi về làm dâu từ năm mươi chính tuổi, do sự sắp đặt của bố mẹ hai bên, do sự mối lái của ông tơ bà nguyệt khéo se.
Ông bà nội tôi mừng lắm. Cứ nhìn mẹ tôi khắc rõ. Vóc dáng khoẻ mạnh, thân hình nở nang. Bà nội tôi không giấu niềm hãnh diện: 'Cái tạng người ấy cứ gọi là cầm tay cũng có thai'. Chả là, trước đây không rõ, chứ từ thời cụ nội tôi đến ông nội, rồi bố tôi chỉ có một người con trai duy nhất. Còn lại bảy, tám người toàn con gái. Nó như một định mệnh truyền từ đời này sang đời khác. Cả làng gọi ba đời nhà tôi là 'độc đinh'. Kẻ xấu mồn xấu miêng đơm đặt đủ điều. Có lẽ vì vậy mà nhan sắc mẹ tôi được đặt xuống hàng thứ yếu. Ông bà nội tôi chỉ cần mẹ tôi thật mắn đẻ. Để đàn, đẻ lũ toàn con trai, để vả vào những điều độc địa. Để xoá đi cái 'định mênh độc đinh' mà họ nhà tôi bà đời leo đẳng. Vậy mà cũng phải đến vài năm sau mẹ tôi mới sinh được anh Khải. Chuyện muộn con được bố tôi giải thích với ông bà nội thế này:'Con bận quá. Hơn nữa cả cuộc còn phải đánh tây. Bố mẹ thì ... '. Ông nội tôi cười thâm thuý: 'Kháng chiến trường kỳ. Ai cũng như anh thì lấy đâu ra người đánh Pháp'. Trước cái lý của cụ, bố tôi cúi đầu vâng dạ. Gia cảnh ông nội tôi tạm đủ ăn. Khi mẹ tôi sinh anh Khải, ông bà nội tôi khao làng. Cứ gọi là nhộn nhịp đến vài ngày. Rồi anh em chúng tôi lần lượt ra đời, năm anh em, toàn con trai. Niềm vui sướng của ông bà nội không để đâu cho hết. Bà nội bảo mẹ tôi: 'Mẹ rất mang ơn con. Con dâu của mẹ đã làm rạng rỡ cho ba đời đằng nội'. Mẹ tôi xấu hổ lý nhí: 'Con đâu dám, thưa mẹ'. Hình như mẹ tôi còn mong điều gì, nên vẻ mặt mẹ vấn buồn buồn. Mãi sau này mẹ tôi mới thổ lộ: 'Mẹ mong thêm đứa con gái chấy rận cho có nếp có lẻ'. Quả trời không phụ lòng người tốt. Dưới tôi là cô em: cái Khoa. Cứ mỗi lần sinh nở, mẹ tôi được ăn cơm gạo trắng, không rõ bà nội tôi kiếm ở đâu. Mẹ tôi được ăn riêng trên nhà. Mỗi lần đến bữa ăn, mẹ tôi lại lén ông bà nội xuống sẻ cho chúng tôi. Mẹ xoa đầu từng đứa bảo: 'Anh Khải chia đề cho các em nhé'. Mẹ tôi lại bưng bát cơm độn nhiều khoai lang.
Sáu anh em chúng tôi lăn lóc bờ ao, góc ruộng, củ khoai, cứ thế lớn lên, cãi nhau chí chóe suốt ngày. Ông bà nội chiều chúng tôi lắm, chẳng mắng đứa nào. Mỗi lần có đứa mách tội nhau, bà nội tôi nói: 'Kìa quan công sứ, xử kiện đi'. Ông nội tôi cười khà khà: 'Thế mới vui nhà vui cửa. Nhà này ba đời đã bao giờ vui như vậy đâu'. Được thể, anh em tôi cãi nhau chán rồi nhảy bổ vào nhau, mặc bà nội gào thét mỏi miệng. Ông nội vẫn cười. Mẹ tôi ngồi võng cho cái Khoa bú. Cái Khoa đỏ hỏn nằm trong lòng mẹ, miệng ngậm vú nhay nhay. Chẳng hiểu sao mẹ tôi cứ xuýt xoa nơi đầu lưỡi, mặt nhăn lại. Chắc mẹ tôi đau lắm. Từ khi tôi bắt đầu nhớ được mọi chuyện đến khi trưởng thành, tôi chưa thấy mẹ cầm roi vụt đứa nào. Nhìn chúng tôi đánh nhau, vật nhau huỳnh huỵch. Tiếng khóc của nhứng đứa bé ré lên vẫn không át nổi tiếng mẹ tôi ru cái Khoa: '... à ơi... khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau... à... ơi'. Tiếng mẹ tôi ru buồn buồn, rầu rĩ. Mấy anh tôi nem nép nơi cửa buồng. Tôi ngồi giữa sân khóc hu hu. Mẹ gọi cả năm anh em lại gần bảo: 'Anh em các con chung một bố mẹ, cùng chung giọt máu, là khúc ruột trên, khúc ruột dưới. Nói nặng lời với nhau đã xót rồi. Lại còn đánh nhau nữa, các con có thấy xót ruột không? Mẹ đau lòng lắm'. Rồi mẹ tôi nhắc anh Khải, anh Khuê, anh Khang từ nay không được đánh các em, phải thương em. Mẹ lại bảo tôi với anh Khương xin lỗi các anh. Năm anh em chúng tôi xin lỗi mẹ và hứa. Mẹ tôi cười mãn nguyện. Hai hàm răng đen nhưng nhức. Bà nội tôi quay mặt đi giấu nỗi xúc động. Ông nội tôi không thể cười được nữa.
Trẻ con chúng tôi mau nhớ, mau quyên. Mỗi lần mẹ tôi đi chợ về là anh em chúng tôi một lần chí chéo, tranh giành nhau cái bánh, cái kẹo. Mẹ tôi lại phải an ủi mấy người con lớn, vỗ về đứa út. Về sau mẹ tôi mua gì đều bằng nhau chằn chặn, cùng loại, cùng số lượng. Xong xuôi mẹ tôi vào bếp làm cơm. Sáu anh em tôi lại đuổi nhau ầm ầm ngoài sân dưới trời nắng vàng hoe, giành nhau con dế mèn, dóng mía hoặc cái kẹo vừng chợ quê. Ông bà nội tôi chiều chúng tôi lắm. Hai cụ coi chúng tôi là niềm tự hào của cả cái dòng họ 'độc đinh' luôn bị chèn ép giữa các dòng họ lớn trong làng: 'Ông bà chỉ mong cải cháu sau này lớn lên làm rạng danh dòng họ'. Rồi cụ quay sang mẹ tôi nói tiếp: 'Bố mẹ rất biết ơn con đã sinh ra cho bố mẹ một đàn cháu nội. Con hãy cố gắng bảo ban chúng nó trở thành người có ích. Nhất là cái tâm'. Mẹ tôi cúi đầu rất thấp, mặt bừng đỏ, giọng như hút hơi: 'Con xin nghe lời bố mẹ dạy bảo'. Anh em chúng tôi cứ thế lớn lên. Và chúng tôi đã có tuổi thơ êm đềm như thế bên cạnh mẹ.
Rồi chiến tranh lan tới. Tuổi trẻ nào nức lên đường tòng quân. Bốn người anh trên tôi lần lượt lên đường vào đúng thời điểm 'Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai'. Chỉ còn tôi đang học cấp ba nên không đơn vị nào tiếp nhận. Có lần vui chuyện, tôi ướm hỏi. Mẹ tôi nói: 'Mẹ không bao giờ cấm đoán việc làm tốt của con. Nhưng bốn anh con đi rồi. Nay con lại đi, ai ở với mẹ?'. 'Mẹ ơi! Đã có cái Khoa'. Mẹ tôi im lặng. Tôi nhớ bốn người anh tôi nhập ngũ, mẹ tôi và tôi đều ra tận nơi giao quân để đưa tiễn. Lần anh Khải đi, mẹ tôi cười, nụ cười tươi roi rói. Trong mẹ tôi như trẻ lại. Mẹ cầm tay anh Khải dặn dò: 'Chúc con được chân cứng đá mềm'. Rồi anh Khuê tiếp tục nhập ngũ. Nụ cười mẹ tôi bịn rịn. Vẫn cái nắm tay nhè nhẹ: 'Con đi mạnh giỏi. Cố gắng cho bằng anh bằng em'. Đến lượt anh Khang, anh Khương. Mẹ tôi cười. Nụ cười méo mó, béo úa. Hàm răng bập vào môi tưởng bật máu. Mẹ tôi cố giấu đi nỗi niềm xa xót những đứa con khoẻ mạnh, trai tráng từ nay rời vòng tay mẹ đi vào nơi hòn tên mũi đạn. Để yên lòng hai người anh tôi, mẹ nén lại dòng nước mắt. Chẳng điều gì có thể nói trước trong chiến tranh. Trên đường về mẹ tôi khóc nhiều lắm. Tôi và cái Khoa cứ lặng lẽ đi bên mẹ. Hàng phi lao, xà cừ do các cụ trồng hai bên đường, lạ thế, cứ uốn éo, rì rào trong gió. Có lẽ vì căng thẳng thần kinh, hay do quá mệt mỏi, mẹ tôi dừng lại tì tay vào thân cây phi lao già, tay kia nâng vạt áo lau nước mắt.Tôi bống nhận thấy mẹ già đi đến chục tuổi. Cái lưng mẹ tôi còng xuống nhiều lắm.
Năm 1970, bốn cái tang liên tiếp dội xuống gia đình tôi, dội xuống đầu mẹ tôi. Ông bà nội tôi già cả không chịu nổi sự đau đớn tột cùng, ngã bệnh và mất sau đó ít lâu. Mẹ tôi không khóc. Đôi mắt mẹ ráo hoảnh đến thẫn thờ. Mẹ tôi nhìn trừng trừng vào bốn tấm bằng 'Tổ quốc ghi công'. Dường như mẹ muốn tìm lại hình ảnh của bốn đứa con thân yêu. Mấy tháng trời, buổi chiều đi làm đồng về, mẹ lấy trong giỏ ra bốn con dế mèn đã buộc chỉ, đặt lên ban thờ các con. Xong, mẹ ngồi xuống bậu cửa gỡ tóc. Mẹ nhặt từng sợi tóc tướp táp, xơ cứng. Mẹ tôi ăn uống thất thường. Bố tôi lo lắng thật sự. Ông lo bà nghĩ ngợi quá nhiều, nhỡ hoá điên, hoặc ốm đau. Trong vòng có vài ba năm, gia đình tôi chịu sáu cái tăng. Bố tôi không dám rời mẹ nửa bước. Nhà tôi trước đã vắng vẻ hiu quạnh, nay cảm giác trống vắng càng lớn. Sự hoang lạnh đến rợn người. Bố thủ thỉ với mẹ: 'Nếu khóc được bà nên khóc lấy một chút cho nhẹ người, chứ như thế này tôi sợ lắm. Con mình hy sinh vì dân, vì nước, mình phải sống sao cho xứng đáng với các con'. Mẹ tôi ngước nhìn bố tôi, rồi đưa bàn tay khô gầy cho ông dùi vào nhà. Mẹ tôi ôm lấy tôi, cái khoa, ngồi xuống giường. Ba mái đầu chụm lại như truyền hơi ấm cho nhau. Mẹ dường như tìm lại cái gì đó không thể gọi thành tên, thành tiếng. Tôi thấy mà tôi ướt đầm, vị mặn trên môi. Không rõ nước mắt của mẹ, hay của tôi, hay của cái Khoa. Bố tôi lặng im đứng nhìn. Hai giọt nước mắt to, tròn roi nhanh trên gò mà sạm đen của ông.
Tôi nhập ngũ năm 1972. Mẹ vẫn đưa tiễn tôi như bốn người anh trên tôi. Mẹ không thể ngăn cản. (Chỉ cần mẹ lắc đầu là danh sách đi bộ đội của tôi sẽ bị xoá). Nhìn mẹ, tôi biết mẹ buồn, buồn lắm.
Đại thắng mùa xuân năm 1975, tôi trở về lành lặn, nguyên vẹn. Mái tóc mẹ tôi bạc trắng. Lưng mẹ tôi còng xuống nhiều hơn; những bước chân chậm chạp, run rẩy. Giọng nói méo mó, phều phào. Hai hốc mắt lõm sâu. Tôi lặng đi nhìn mẹ. Mẹ tôi đấy. Một người đàn bà bình dị như biết bao bà mẹ Việt
Hôm nay xã tổ chức long trọng buổi lễ Nhà nước tuyên dương công trạng và phong tặng danh hiệu cao quý: Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Mẹ tôi đi giữa hai hàng danh dự bồng súng đứng chào. Mẹ tôi đi trong tiếng kèn đồng vàn lừng. Cả đời mẹ tôi hay lam hay làm, quẩn quạnh việc nhà, việc đồng áng, chưa bao giờ xuất hiện ở nơi đông người. Bước chân mẹ run run. Không biết có khi nào mẹ tôi nghĩ một ngày nào đó mẹ xuất hiện trước các quan khách như hôm nay? Chắc là không. Tôi chỉ thấy mẹ tôi sợ. Mẹ tôi sợ mình quê mùa sơ ý làm điều gì đó, nói điều gì đó thất thố trước mọi người, mẹ tôi sợ cái không khí trang nghiêm đến thiêng liêng của buổi lễ. Mẹ tôi sợ nhiều thứ. Thậm chí mẹ tôi sợ làm nhàu chiếc khăn trải bàn trắng tinh trước mặt. Rất nhiều người khóc. Mẹ tôi không khóc. Mẹ tôi khóc nhiều rồi. Đêm nào mẹ tôi cũng khóc. Nước mắt mẹ tôi tưởng như đã cạn kiệt. Chỉ đến khi tấm huy chương được cài lên ngực, mẹ tôi mới gục vào vai người đứng bên cạnh nức nở.
Nguyễn Sỹ Đoàn
(Thành phố Hải Dương)