Lúng túng việc cấp phép sử dụng tài nguyên nước
Hiện nay, tài nguyên nước mặt được sử dụng cho nông nghiệp và thủy điện là chủ yếu. Nhưng hầu hết các công trình khai thác sử dụng tài nguyên nước đang vận hành của ngành nông nghiệp chưa xin cấp phép. Đây chỉ là một trong số rất nhiều những hạn chế trong công tác cấp phép sử dụng tài nguyên nước.
Cơ chế quản lý chưa rõ ràng
Cuối năm 2008 và những tháng đầu năm nay, Sở Tài nguyên-Môi trường triển khai mạnh mẽ việc tuyên truyền, hướng dẫn vận động doanh nghiệp làm thủ tục cấp phép khai thác nước và xả thải vào nguồn nước. Nhưng cả trong quý 1-2009, sở mới chỉ cấp được 1 giấy phép xả thải và 2 giấy phép khai thác nước mặt. Cơ chế quản lý và phạm vi quản lý của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Tài nguyên Môi trường chưa rõ ràng. Nhiều cơ quan tham gia quản lý, khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên nước song quy định về trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các ngành, cơ quan lại chưa đồng bộ. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao quản lý 5 hệ thống tưới tiêu chính phục vụ sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt gồm các công trình thủy lợi; Trung tâm Nước sạch nông thôn khai thác nước ngầm phục vụ khu vực ngoại thành; Công ty Cấp nước trực thuộc ngành Xây dựng khai thác nguồn nước mặt của các sông Đa Độ, Rế, Giá, phục vụ nước sinh hoạt khu vực đô thị; Sở Tài nguyên và Môi trường tiến hành cấp phép thăm dò khai thác nước... Điều này khiến các cơ quan quản lý tài nguyên nước ở địa phương khó nắm được tình hình khai thác tài nguyên nước mặt của các đơn vị trên địa bàn để cấp phép.
Quy định cấp phép theo định tính
Cơ chế quản lý cấp phép khai thác tài nguyên nước chưa rõ ràng, còn quy định về quy trình cấp phép chưa phù hợp thực tế. Năm 2004, Chính phủ có nghị định về cấp phép khai thác sử dụng nguồn nước và xả thải vào nguồn nước. Bộ Tài nguyên-Môi trường có thông tư hướng dẫn về vấn đề này. Song các quy định trên chưa đưa ra quy định hướng dẫn cụ thể về việc phân loại và đánh giá khả năng tiếp nhận xả thải của nguồn nước, khiến cho việc tính phí, cấp phép xả thải không bảo đảm sự chính xác.
|
Việc đánh giá chất lượng nguồn nước tiếp nhận gồm có phân tích tài liệu, số liệu liên quan đến chất lượng nguồn nước tiếp nhận để đánh giá chất lượng nguồn nước tiếp nhận theo TCVN hiện hành với các mục đích sử dụng khác nhau (theo không gian và thời gian). Đánh giá tác động của hiện trạng xả nước thải đến nguồn nước tiếp nhận, những tác động đối với nước tiếp nhận, môi trường và hệ sinh thái thuỷ sinh; chế độ thủy văn dòng chảy. |
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp trong khu vực nội thành đều xả thải vào hệ thống thoát nước chung, kênh mương của thành phố. Có hệ thống thoát nước đổ trực tiếp ra sông, có hệ thống đổ ra biển, có hệ thống cống thoát hoặc kênh mương không đổ trực tiếp...Do đó, việc phân loại nguồn tiếp nhận nước thải ra kênh mương ở thành phố chỉ dựa trên ước lượng, chưa căn cứ vào số liệu định lưọng cụ thể, do đó rất khó để thực hiện việc cấp phép xả thải một cách khách quan và đầy đủ. Theo quy định, việc cấp phép xả thải dựa trên tính toán, quan trắc lượng nước và chất thải có trong nước. Tuy nhiên việc quan trắc, tính toán cần nhiều thời gian và công sức. Bước đầu, Sở Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn doanh nghiệp tự kê khai lượng nước và chất xả thải làm cơ sở tính toán, song số lượng doanh nghiệp đến kê khai quá ít.
Để việc cấp phép tài nguyên nước mặt được thuận lợi, trước mắt thành phố cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm của các đơn vị sử dụng nước mặt. Việc cấp phép xả thải trong thời gian tới sẽ căn cứ vào việc phân vùng với loại cấp phép cụ thể. Ví dụ như: đoạn sông nào có nguồn nước phục vụ cho cấp nước sinh hoạt thì cơ sở sản xuất ven lưu vực sẽ được cấp phép xả thải loại A, khu vực nào có nguồn nước cung cấp cho nông nghiệp, công nghiệp và nuôi trồng thủy sản thì cơ sở sản xuất sẽ được cấp phép xả thải loại B.
Thu Thủy