Mảnh đất khai hoang từ thời ông cha
Bên xấp hồ sơ dày cộp, nhàu nát trên tay, có tờ đã ố vàng theo năm tháng, bà Nguyễn Thị Chà (SN 1956) kể lại hành trình đi đòi đất nhiều năm nay nhưng chưa được chính quyền địa phương và doanh nghiệp lấy đất giải quyết thỏa đáng.
Bà kể, năm 1966, cha bà là cụ Nguyễn Văn Dẩu khai hoang mảnh đất hơn 15 ngàn m2 tại khu vực Rừng Đước. Thời đó, chiến tranh chống Mỹ, cả gia đình tôi ở lại mảnh đất này tham gia kháng chiến, nuôi cán bộ. Lúc này, nguồn sống chính của gia đình đều phụ thuộc vào mảnh đất này trồng lúa, bắt tôm cá.
“Năm 1983, sau khi đất nước thống nhất, chính quyền địa phương mượn tất cả toàn bộ đất của gia đình tôi để sử dụng canh tác theo hình thức nông trường và có đắp con đê để chia cắt mảnh đất ra hai phần: Phần trong đê diện tích 9.804m2, phần ngoài đê 6.250m2.
Đến năm 1990 và 1996, Nhà nước có giao lại đất cho dân và có chủ trương kê khai để cấp sổ đỏ. Tuy nhiên UBND xã chỉ chấp nhận cấp sổ đỏ với diện tích phần trong đê, còn phần ngoài đê không được cấp.
Đến nay, phần đất ngoài đê được địa phương giao lại cho Công ty Cổ phần Cảng Long An và Công ty Cổ phần Khu công nghiệp Long An. Hai công ty này cho xe vào ủi đất, phá hoại tài sản trên đất canh tác của các hộ nông dân khiến cả xóm lao đao”, bà Chà nói.
“Đất này là chúng tôi trồng lúa, nuôi tôm bắt cá sống bao nhiêu đời, nhưng địa phương hành xử thiếu cả tình lẫn lý, cho doanh nghiệp ngang nhiên vào lấy đất thì coi như triệt đường sống nông dân”, bà Chà phản ánh, “Mảnh đất này của cha tôi để lại, trước khi mất vào năm 2013, cha tôi chết không nhắm được mắt vì ức chuyện mảnh đất khai hoang bị lấy, vì mảnh đất này cụ đã phải đổ mồ hôi xương máu mới bảo vệ được đất”. Được biết trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cụ Dẫu được Nhà nước trao tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì.
Cùng với những người hàng xóm, bà Chà nay đã 63 tuổi, chưa từng đi học ngày nào, không hề biết mặt chữ, thế nhưng vẫn bắt xe đi khắp các cơ quan gõ cửa kêu cứu.
Cùng quan điểm như bà Chà, bà Võ Thị Mỹ Duyên (ngụ quận 6, TP HCM), cho biết, vào năm 1970, cha mẹ bà mua lại đất tại đây, có giấy tờ do chế độ cũ cấp. Sau giải phóng, Nhà nước đắp con đê ngăn mặn Vĩnh Tân. Khoảng cuối 1979 đầu năm 1980 con đê hoàn tất đã chia đất canh tác của nhà bà Duyên và nhiều hộ dân khác ra làm hai phần trong đê và ngoài đê.
Bà Duyên trình bày: “Lúc này, chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra nên chính quyền vận động dân cho bộ đội giữ khu đất ngoài đê nhằm mục đích bảo vệ khu vực. Năm 1984 bộ đội đã hết nhiệm vụ nhưng huyện Cần Giuộc lúc bấy giờ có chủ trương làm tập đoàn nông trường nên giữ phần đất này lại.
Năm 1990, tập đoàn nông trường hoàn toàn giải thể nên đất của gia đình nào trả theo gia đình nấy. Đồng thời lúc này cũng có chủ trương kê khai để cấp sổ đỏ. Gia đình tôi kê khai canh tác theo giấy tờ gốc từ ngày xưa, địa phương chỉ cấp sổ đỏ phần trong đê, còn phần ngoài đê là 40 ngàn m2 thì không cấp.
Khu vực bên sông Soài Rạp, nơi những nông dân tố bị lấy đất khai hoang trái luật |
Gia đình tôi đã khiếu nại nhiều năm nay đều bị xã, huyện, tỉnh bác đơn, không xem xét giải quyết thỏa đáng, còn bác đơn với lý do không hợp lý như: Nói gia đình tôi canh tác trên đất không rõ nguồn gốc, nói gia đình tôi “có nguồn gốc địa chủ nên lấy đất”, trong khi đó ông tôi là liệt sĩ, bà nội tôi là Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Địa phương đã lấy đất gia đình tôi nuôi trồng thủy sản mà lại nói là “làm rừng phòng hộ””.
Mâu thuẫn trong báo cáo của huyện Cần Giuộc
Theo Báo cáo số 250/BC-UBND của UBND huyện Cần Giuộc do Phó Chủ tịch UBND huyện Cần Giuộc ký ngày 8/12/2016, trước năm 1945, ông Hội đồng Ngay có rất nhiều ruộng đất không rõ diện tích nằm dọc sông Soài Rạp, cho nông dân thuê đất để thu tô.
Sau khi ông Ngay qua đời, đất được giao lại cho các con ông Ngay sử dụng. Năm 1950 - 1955 do chiến tranh ác liệt nên các con ông Ngay về Sài Gòn sinh sống, bỏ lại đất hoang. Đến năm 1958, có một số hộ nông dân đến khai hoang nhưng sau đó cũng bỏ đi không sử dụng.
Năm 1960 - 1969 chế độ cũ giải tỏa khu vực từ mé sông Soài Rạp vào đất liền 2km cho tàu hải quân thường xuyên tuần tra bắn phá nên khu vực này dân không được ở và cũng không canh tác ruộng nên đất bỏ hoang. Báo cáo của huyện đến đây bắt đầu có những thông tin khác so với thông tin người dân cung cấp, khi cho rằng: “Sau ngày 30/4/1975, chính quyền Cách mạng có vận động dân vào khu vực này để khai vỡ sử dụng nhưng ít ai đến”.
Năm 1977-1978 Nhà nước đắp đập Rạch Chim và ngăn đê khoanh vùng giao cho lực lượng quân sự huyện quản lý khai hoang, sau đó giao Công an huyện khai phá. Năm 1983, UBND huyện giao cho Đoàn kinh tế tiếp tục khai phá nuôi trồng thủy sản, trồng trọt,.. sau đó chuyển sang trồng đước.
Năm 1993, Tiểu đoàn Kinh tế giải thể, UBND huyện giao cho Xí nghiệp Công Nông nghiệp, đến năm 1994 giao lại cho Công ty Dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp huyện quản lý. Đến năm 2000 giao cho Ban Chỉ huy quân sự huyện quản lý phần đất có diện tích 206.985m2.
Bản báo cáo này kết thúc bằng phần nhận xét: “Đất khu vực Rừng Đước, xã Tân Tập là đất của nguồn gốc của địa chủ, trước năm 1975 do chiến tranh đánh phá ác liệt, Hội đồng Ngay và các con ông bỏ đất hoang về lại Sài Gòn sinh sống.
Chế độ cũ đã khống chế khu vực này từ sông Soài Rạp vào 2km, thường xuyên cho tàu tuần tra bắn phá nên không cho người dân nào canh tác ruộng được trong khu vực này từ những năm 1960 cho đến năm 1975”.
Ngay trong bản báo cáo này cũng đã bộc lộ mâu thuẫn, khi ở trang trước cho rằng “ít ai đến” khai hoang, nhưng phần nhận xét lại cho rằng “sau 1975, chính quyền Cách mạng tiếp quản, cũng đã vận động nhưng không có người dân đến khu vực này để khai khẩn”.
Vẫn theo báo cáo: “Đến năm 1977, Nhà nước đã trưng dụng và đưa vào quản lý đất khu vực rừng đước cho đến nay và hiện nay khu vực đất này đã có Quyết định thu hồi đất giao cho Công ty Cổ phần Cảng Long An. Do đó, việc các hộ dân khu vực rừng đước khiếu nại xin công nhận quyền sử dụng đất hoặc đòi lại đất nhưng không có các loại giấy tờ để chứng minh là không có cơ sở để xem xét giải quyết”.
Xem xét thực tế, căn cứ vào các giấy tờ các hộ dân còn lưu giữ, cho thấy báo cáo nêu trên của huyện có nhiều điểm không chính xác. Vì sao có chuyện công sức khai hoang bao đời của các hộ dân bất ngờ bị “xóa trắng” như trên? PLVN sẽ tiếp tục phản ánh sự việc.
Gian nan khiếu kiện:
Có thể đơn cử một trường hợp bà Võ Thị Mỹ Duyên để biết chuyện sau khi bị lấy đất, các hộ nông dân đã khốn khổ khiếu kiện ra sao.
Năm 2002, bà Duyên làm đơn gửi đến UBND xã Tân Tập xin đăng ký phần đất ngoài đê nhưng không được xem xét nên làm đơn khiếu nại xin lại diện tích đất. UBND xã Tân Tập có văn bản trả lời trường hợp khiếu nại xin lại đất của bà không được xem xét giải quyết. Ngày 12/01/2004, UBND huyện Cần Giuộc ban hành Quyết định số 49/QĐ.UB bác đơn khiếu nại của bà Duyên về việc xin lại diện tích đất.
Năm 2006, bà Duyên tiếp tục làm đơn khiếu nại đòi lại diện tích đất và yêu cầu bồi thường, UB huyện bác bỏ.
Năm 2013, bà Duyên lại khiếu nại. Ngày 8/2/2014, UBND huyện Cần Giuộc ban hành Thông báo số 24/TB-UBND về việc không thụ lý giải quyết đơn khiếu của bà Duyên.
Ngày 12/9/2016, bà Duyên tiếp tục làm đơn khiếu nại đòi lại diện tích đất và yêu cầu bồi thường. Ngày 4/10/2016, UBND huyện có Văn bản số 1653/UBND-TNMT về việc trả lời khiếu nại bà Võ Thị Mỹ Duyên với nội dung việc khiếu nại của bà là không có cơ sở để xem xét, thụ lý giải quyết. Lý do: Thời hạn khiếu nại đã hết.