Mới đây tại hội thảo “An toàn thực phẩm và vai trò của truyền thông khoa học” do Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với Croplife Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, TS. Jason Sandahl, chuyên viên kỹ thuật về an toàn thực phẩm (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ) cho rằng, thiếu sót trong việc cung cấp thông tin đầy đủ tới công chúng về thuốc bảo vệ thực phẩm, về những vấn đề an toàn thực phẩm đã đẩy lo lắng của công chúng lên cao và dẫn tới những hiểu lầm rằng “thuốc BVTV là không an toàn”.
Theo TS. Jason Sandahl, khi nỗi lo lắng của người tiêu dùng về vấn đề an toàn thực phẩm ngày càng trở nên thường trực, có khi chính nỗi sợ ấy cũng bị đem ra để kinh doanh và trục lợi. Ông Jason cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc sử dụng các giải pháp BVTV tiên tiến nhằm đảm bảo đủ lương thực cho dân số toàn cầu như hiện nay; vấn đề mấu chốt là cần có một nền tảng pháp lý chuẩn khoa học và có sự tham gia của nhiều bên trong việc thực thi các phương thức thực hành nông nghiệp bền vững.
“Nông dân, Chính phủ và các đơn vị sản xuất phân phối đều có trách nhiệm và nghĩa vụ ngang nhau trong đảm bảo sản xuất ra lương thực an toàn và dinh dưỡng tới người tiêu dùng”, TS. Jason Sandahl chia sẻ.
Còn Giáo sư David Zaruk, Đại học Odisee (Vương quốc Bỉ), người có hơn 20 năm nghiên cứu về truyền thông đối với các vấn đề khoa học đã đưa ra các ví dụ minh hoạ về tác động của truyền thông trong việc đẩy cao cảm xúc của công chúng một cách có chủ đích hướng tới các mục tiêu thương mại hơn là nhìn nhận bản chất khoa học của vấn đề đó.
Một ví dụ được chỉ ra là hoạt chất Glyphosate – một trong những loại thuốc trừ cỏ được giới khoa học và cơ quan đánh giá an toàn trên toàn cầu khẳng định là an toàn và phổ biến nhất hiện nay đang dưới áp lực phải xem xét lại do một số báo cáo khoa học dựa trên nguy cơ và những hoạt động truyền thông “gây sợ hãi”.
“Giới truyền thông làm việc trong môi trường có tính phản ứng cao. Tuy nhiên cần nhìn nhận rõ rằng 80% công chúng gần như không có quan điểm rõ ràng. Với sự bùng nổ của mạng xã hội và tính tương tác ngày càng cao trong môi trường giao tiếp hiện nay, các kênh truyền thông chính thống muốn giữ mức độ tín nhiệm với công chúng cần đơn giản hoá thông điệp, đối chiếu thông tin thường xuyên hơn với các nhà khoa học và hạn chế suy luận cảm tính”, ông David nói.
Tại hội thảo, Tiến sĩ Đào Xuân Cường, Giám đốc quỹ Syngenta Foundation, đại diện CropLife Việt Nam cho biết, tại Việt Nam, 24,5 triệu hộ nông dân nhỏ phụ thuộc vào các giải pháp BVTV để ngăn ngừa dịch hại và áp lực cỏ dại gây hại cho cây trồng làm giảm năng suất khi thu hoạch.
Tuy nhiên, lạm dụng sử dụng quá liều các vật tư nông nghiệp đầu vào như thuốc BVTV và phân bón hoá học; việc nhập khẩu thiếu kiểm soát và sai luật các sản phẩm kém chất lượng; thiếu truy xuất nguồn gốc là các yếu tố ảnh hưởng tới an toàn thực phẩm.
Bên cạnh việc tổ chức các chương trình hướng dẫn nông dân sử dụng có trách nhiệm các sản phẩm thuốc BVTV, công tác truyền thông hướng tới nông dân cần được đẩy mạnh hơn nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của họ trong chuỗi sản xuất nông nghiệp an toàn và các tác động tiêu cực nếu sử dụng sai quy cách và hướng dẫn.
“Quy trình đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế, dựa vào nền tảng khoa học sẽ là tiền đề quan trọng giúp loại bỏ các sản phẩm thuốc không còn phù hợp và đẩy nhanh việc giới thiệu các sản phẩm tiên tiến hơn đến với nông dân, giúp tạo ra nguồn thực phẩm an toàn, dinh dưỡng và phong phú hơn”, ông Cường nhấn mạnh.
Cũng tại hội thảo này, nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam nhấn mạnh: Báo chí đã giúp công chúng ngày càng ý thức hơn tới quy trình sản xuất, cách thức tạo ra thực phẩm họ tiêu dùng hằng ngày và đề cao vấn đề an toàn và dinh dưỡng; bên cạnh đó những lo ngại về an toàn thực phẩm cũng là đề tài thu hút, rất dễ bị khai thác và “cường điệu hoá”.
Điều đó cho thấy trách nhiệm của báo chí trong việc cung cấp thông tin một cách khoa học, đầy đủ ngày càng trở nên quan trọng, giúp công chúng có kiến thức trước khi đưa ra những lựa chọn tiêu dùng thông minh.