Tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm ở Việt Nam năm 2009 vẫn giữ mức 85% (bằng với năm 2007 và 2008) – đó là thông tin được Liên minh phần mềm doanh nghiệp (BSA) và hãng IDC đưa ra hồi cuối tháng 4 vừa qua. Thông tin này lập tức dấy lên luồng dư luận phản đối.
BSA đã dùng công thức mập mờ để tính tỷ lệ vi phạm bản quyền? |
Nhiều ý kiến cho rằng BSA và IDC đã bỏ qua sự cố gắng của Chính phủ cũng như các DN Việt Nam trong việc tôn trọng bản quyền phần mềm.
Phân tích về con số 85% mà BSA-IDC đưa ra, ông Nguyễn Long - Tổng thư ký Hội tin học Việt Nam (VAIP) cho rằng, con số trên thiếu chính xác và không phản ánh đúng thực tế. BSA và IDC đã không hợp lý khi không hề tính đến tỷ lệ sử dụng phần mềm mã nguồn mở, trong khi xu thế chuyển dịch phần mềm bản quyền sang phần mềm nguồn mở và các dịch vụ phần mềm trên mạng phát triển mạnh ở Việt Nam.
Nhiều chuyên gia nhận định, mặc dù tình trạng dùng phần mềm “chùa” vẫn là phổ biến, nhưng đã có sự chuyển biến tích cực từ tổ chức, DN, cá nhân trong những năm qua. Nhưng báo cáo của BSA và IDC dường như đã bỏ qua những nỗ lực của Việt Nam khi thời gian qua đã chi nhiều triệu USD để mua bản quyền phần mềm. Ngoài ra, năm 2008, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã thay mặt Chính phủ, ký thỏa thuận mua bản quyền phần mềm văn phòng của Microsoft với thời hạn 3 năm cho các cơ quan quản lý từ Trung ương tới địa phương…
Với những phân tích của mình, Hội tin học cho rằng, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm năm 2009 ở Việt Nam có xu hướng giảm mạnh, ước tính giảm tới 10% so với con số 85% của BSA đánh giá năm 2008.
Ông Lê Ngọc Quang - Giám đốc Trung tâm Đào tạo - Dịch vụ công nghệ thông tin, truyền thông (thuộc Viện Công nghiệp phần mềm và nội dung số Việt Nam) cho rằng, BSA đã dùng công thức mập mờ để tính tỷ lệ vi phạm bản quyền. Do đó, không loại trừ đơn vị này dùng kết quả để gây ra sức ép thương mại (thành viên của BSA là các DN phần mềm thương mại lớn như Microsoft, Adobe, AVG, Corel, Kaspersky...).
Một điều mà nhiều chuyên gia lấy làm tiếc là từ trước đến nay chúng ta thường coi trọng nhận định của các tổ chức nước ngoài, từ đó làm “gương” soi hoạt động của mình. Từ sự việc BSA – IDC năm nay, cho thấy, chúng ta cũng đã thiếu sót khi chưa có một nghiên cứu đánh giá về tôn trọng bản quyền phần mềm để đưa ra con số đối chiếu với BSA. Mà, chỉ có những nghiên cứu độc lập, chính xác về vấn đề này mới có thể tạo đà phát triển cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam.
Bách Nguyễn