Làng quê xao xác (kỳ 2)

Từ lâu Vĩnh Bảo được truyền là huyện lúa “bờ xôi ruộng mật". Nhưng  làm nông nghiệp thời nào cũng không thể gọi là giàu ngất ngưởng. Trưởng công an xã Đồng Minh Bùi Đức Mi đưa ra con số: Xã Đồng Minh có 7.900 nhân khẩu, khoảng 2000 hộ, thu nhập bình quân 560.000 đồng/ người/ tháng.

Nhưng có thể khẳng định, ở xã bà con nông dân không thể giàu đến mức có tiền triệu, tiền tỷ để cho vay. Nhưng thực tế họ đã cho vay nhiều món lớn và cũng mất rất lớn. Ngoài 37 nạn nhân chủ yếu ở các thôn Hu Trì, Bảo Hà với 16 tỷ đồng đã nêu trong cáo trạng, còn nhiều người  mất không vài chục triệu đồng không có trong hồ sơ. Tìm hiểu được biết, họ bị cuốn vào vòng xoáy của lợi nhuận mà những người buôn tiền mang đến từ rất nhiều thủ thuật khác nhau. Trước hết là khoản “ tiền sâu” 10%. Ví dụ, người cho vay cứ đưa cho Hà 100 triệu đồng thì Hà chi lại ngay 10 triệu đồng. Còn lãi suất luôn ở mức 5- 9%. Nhưng để  moi được tiền trong dân, lại là một quá trình tạo dựng lòng tin từ thăm hỏi, làm quen đến cho quà thoải mái, nhỏ nhất là mì chính, cân đường “cứ đem về mà dùng”, lớn hơn là những món tiền “ nằm mơ không có”, những chuyến đi lễ lạt, du lịch mà chủ nợ bao từ A- Z. Và nhất là khuyếch trương thương hiệu, rằng đã và đang làm ăn lớn. Chị Vũ Thị Gấm cho rằng đó là những thủ đạo rất xảo quyệt: “ Tôi  làm nghề thợ may. Hà nhiều lần hỏi vay tiền nhưng chưa được. Khoảng một năm đầu, Hà đến cắt quần áo. Lúc trả tiền công, ngoài việc hào phóng trả thêm, Hà còn gọi điện cho ai đó cốt để  tôi nghe thấy, rằng mình đang làm ăn lớn, đang chung tàu đi biển, mở xưởng này, xưởng nọ để mở mang kinh doanh, làm tượng…Có lúc, Hà gửi tôi 200 triệu đồng “ vì sợ đi đường không yên tâm”. Giờ sau quay lại lấy số tiền  trên, Hà cảm ơn và còn cho tôi 5 triệu đồng gọi là “để mua quà cho cháu”. Khi thấy đã tin tưởng, tôi cho Hà vay 10 triệu đồng. Chỉ sau 10 ngày, Hà sòng phẳng trả hết cho tôi (cả gốc lẫn lãi cao) và cho con  tôi 200 nghìn đồng. Sau đó, tôi cho Hà vay hai “mẻ” nữa là 50 triệu đồng và 80 triệu đồng có yêu cầu chồng Hà phải ký vào giấy cho vay. Ngay sau đó, tôi được vợ chồng Hà mời đến nhà làm cơm đãi và chồng Hà vui vẻ ký món mới vay. Sau đó, vợ chồng Long Hỗ - một trong những đầu mối làm ăn quan trọng với Hà ân cần mời tôi đến nhà chơi. Họ cho  tôi xem  cả két tiền, vàng và bảo: “ Làm sao phải bắt chồng Hà ký? Phải tin nhau chứ. Nếu có bề gì, mày cứ cắt cổ tao”. Thế là, từ chỗ tin vào sự sòng phẳng, hám lợi từ những món quà và mức lãi suất cao, từ ngày 25-3-2007 đến ngày 8-11-2008, chị Gấm cho Hà vay tổng số 780 triệu đồng đồng với lãi suất 9% tháng. Cho vay nhiều, Gấm cũng được Hà trả 162 triệu đồng tiền lãi. Đến ngày Hà bị vào tù còn nợ Gấm 595 triệu đồng.

         

Còn đây là lời của chị Nguyễn Thị Hường: “ Khi vay tiền của tôi, Hà nói có thằng cháu đang cần vốn mở xưởng sửa chữa ô tô ở ngã ba Đôn Niệm, lại còn hứa sẽ cho chồng tôi ra xưởng đó làm ăn.”. Chúng tôi hỏi: “Chị có biết xưởng đó không?”. Chị Hường lắc đầu: “ Nào có biết, chỉ thấy Hà cho xem giấy tờ. Với lại nhà tôi còn khó khăn. Nếu cái xưởng sửa chữa của Hà tạo điều kiện công ăn việc làm cho chồng tôi thì còn gì bằng. Thế là tôi cho vay. Hơn nữa Hà trả lãi suất cao, lại rất xởi lởi. Nhà Hà có từng bao mì chính, bánh kẹo chuyên để làm quà cho  những người cho vay, trong đó có tôi. Nếu tôi vay cho Hà 10 triệu đồng, Hà lại cho con tôi vài chục hoặc 100 nghìn đồng. Nghĩ rằng chị ta đang làm ăn lớn, hào phóng, mà tôi biết Hà từ lâu, tôi không những cho vay, vay của người khác  mà còn  vận động họ hàng đưa tiền cho Hà vay và đều đứng tên tôi. Bây giờ thì….”.

        

Hoa mắt vì “tiền sâu”, vào lãi suất cao, những người khác cũng cuốn theo vòng xoáy “kinh doanh đồng tiền” bằng cách huy động bạn bè, người thân, thậm chí có người thế chấp nhiều bìa đỏ vay từ ngân hàng Nhà nước với lãi suất thấp để về cho Hà vay lại lấy lãi suất cao gấp nhiều lần (như trường hợp chị Phạm Thị Lân). Có người nói rằng, nếu ngân hàng niêm phong nhà, thì Vinh Quang và Đồng Minh có rất nhiều nhà bị mất vì trừ nợ. Trong tổng số 37 nạn nhân của Hà, có nhiều người được trả hàng trăm triệu đồng lãi suất như chị Vũ Thị Gấm 162 triệu, Nguyễn Thị Tuyền: 427 triệu cùng 60 triệu đồng tiền thưởng!. Phạm Thị Lân: 575 triệu 930 nghìn đồng, Nguyễn Ngọc Hân: 294 triệu 540 nghìn đồng… Những người có món nhỏ hơn cũng bị Hà không tha. Nhóm bạn chị Vũ Thị Gấm cho biết: “ Cụ Kềnh làm nghề thầy cúng gom góp được 6 triệu đồng cũng bị Hà lừa, mặc dù Hà là cháu cụ. Có người  chắt chiu được 50 triệu đồng định bụng dành cho con nuôi lo cho mình sau này cũng bị  mất trắng với Hà”.

             

Nếu ở xã Vinh Quang, những người cho vay bị “bỏ bùa” bởi chiêu lãi suất cao, cho ăn chơi , tặng quà miễn phí… thì ở thôn 4 xã  Cổ Am  còn cộng thêm sự cả tin. Vì với hai cửa hàng bán lưới, họ cho rằng vợ chồng Năm Chanh làm ăn lớn, kinh doanh phát đạt, lại là người cùng làng xóm, cho chỗ ấy vay có chút đỉnh cho con ăn học, mua sắm còn tiện hơn là gửi ngân hàng. Do vậy, họ hùa nhau cho vay. Cả xã có 40-50 người chủ yếu là nông dân kiếm đồng tiền từ làm thêm nghề bốc vác, cho Năm Chanh vay hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp có khi từ 200 nghìn đồng đến 1triệu đồng. Tiền lãi họ lại gộp vào gốc cho vay tiếp. Đến tháng 12-2008, toàn bộ số tiền gốc Năm Chanh vay mà không trả lên tới cả chục tỷ đồng.

            

Như vậy có thể thấy, nhiều bà con Vinh Quang, Đồng Minh, Cổ Am có rất nhiều tiền để cho vay. Nhưng nguồn tiền ấy là “sự giàu giả’ bởi không phải của chính họ, mà nó được tạo ra từ nhiều nguồn khác nhau: tiền dành dụm, tích lũy, gom từ nhiều người khác, thế chấp sổ đỏ vay ngân hàng...Tất cả được tạo ra từ những thủ thuật tinh vi của những người có thâm niên trong nghề cho vay nặng lãi như Phạm Thị Hà, Năm Chanh khi những người này “điểm đúng huyệt” của người nông dân là: lòng tham và sự cả tin.

 

Nhóm PV chuyên đề