Dũng tướng tài ba
Lê Văn Duyệt sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Hòa Khánh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay là huyện Cái Bè, Tiền Giang). Từ nhỏ ông sớm bộc lộ tư chất thông minh, lanh lẹ. Dù ngoại hình thấp bé nhưng sức vóc ông hơn người, giỏi võ thuật và mang chí lớn.
Truyền rằng, năm Lê Văn Duyệt 17 tuổi, vào một đêm mưa to gió lớn, Nguyễn Ánh trên đường trốn chạy sự truy đuổi của quân Tây Sơn thì thuyền bị chìm xuống sông. Gia đình ông đã chèo xuồng ra cứu thoát và đưa về nhà tá túc. Thưởng công cứu giá, Chúa Nguyễn khi đó đã nhận Lê Văn Duyệt làm thái giám, lãnh nhiệm vụ bảo vệ cung quyến.
Năm 1793, Lê Văn Duyệt được Nguyễn Ánh phong làm thuộc nội vệ úy, thường bàn việc binh với ông. Là người có tài cầm quân, giỏi đánh trận, ông nhanh chóng trở thành một trong những tướng lĩnh hàng đầu của Chúa Nguyễn.
Trận chiến đậm dấu ấn công lao của ông là vào năm 1801, khi ông cùng Chúa Nguyễn và các tướng Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (Bình Định). Khi tướng Võ Di Nguy bị trúng đạn tử trận, ông càng gắng sức đánh, đốt phá gần hết binh thuyền Tây Sơn. Trận ấy về sau được xem là “võ công đệ nhất” của nhà Nguyễn.
Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt từng được ví như biểu tượng của Sài Gòn - Gia Định. |
Cũng trong năm đó, ông theo Chúa Nguyễn ra đánh Phú Xuân, có công phá được các phòng tuyến quân Tây Sơn giúp Chúa Nguyễn tiến vào nội thành Phú Xuân. Sau đó, ông theo lệnh Chúa Nguyễn đem quân bộ vào cứu thành Bình Định. Dọc đường, ông đánh thắng nhiều trận, nhưng không kịp cứu quận công Võ Tánh và Lễ bộ Ngô Tùng Châu. Xét công, Chúa Nguyễn phong Lê Văn Duyệt làm “Thần sách quân Chưởng tả dinh Đô thống chế quận công”.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, phong Lê Văn Duyệt làm “Khâm sai Chưởng Tả Quân dinh Bình Tây tướng quân, tước quận công” để đem bộ binh ra Bắc truy diệt nhà Tây Sơn. Về sau, ông còn có nhiều công lao dẹp yên các cuộc nổi dậy, bạo loạn, cướp phá. Lê Văn Duyệt sau được liệt vào hàng đệ nhất khai quốc công thần với nhiều đặc ân như được vào chầu vua không phải lạy, đặc quyền tiền trảm hậu tấu nơi biên thùy.
Năm 1812, ông được phong làm Tổng trấn Gia Định, nhận nhiệm vụ bảo hộ nước Chân Lạp (Campuchia). Vào năm 1820, dưới thời vua Minh Mạng, ông lại được cử làm Tổng trấn Gia Định lần thứ hai. Tại đây, ông không chỉ giữ vững bờ cõi phía Nam mà còn chăm lo phát triển kinh tế, đời sống nhân dân.
Công lao phát triển Nam Bộ
Hai lần làm tổng trấn thành Gia Định, vị Tả quân coi cả quân dân trọn vùng Nam Bộ, quyền uy rất lớn. Ông một lòng trung nghĩa, hành sự nghiêm minh, đối xử công bằng nên lòng người kính phục. Ông cũng thể hiện mình là nhà chính trị sắc sảo, có tư duy làm kinh tế, để lại dấu ấn lớn khi có công khai phá, mở rộng và phát triển vùng đất phương Nam.
Nam Bộ bấy giờ nhiều nơi còn hoang hoá, Lê Văn Duyệt đã chiêu mộ dân chúng khẩn hoang, tạo nên những cánh đồng trù phú. Ông là người đã đề xuất với triều đình tổ chức đào kênh Vĩnh Tế. Trong 5 năm thực hiện, đã huy động hơn 90.000 dân công, bao gồm cả người Việt lẫn người Cao Miên. Kênh giúp tưới tiêu cho hàng vạn mẫu ruộng, giúp giao thông đường thủy thuận lợi. Công trình còn có ý nghĩa to lớn về kinh tế và quốc phòng đến ngày nay.
Ông còn khéo léo mở rộng giao thương với các nước, thu hút người phương Tây đến buôn bán, khuyến khích dân Hoa kiều nhập cư vào đất Gia Định để phát triển thương mại. Thời kỳ này, nhiều tàu buôn của các nước cập bến Gia Định để mua bán trao đổi hàng hoá, khung cảnh buôn bán trên bến dưới thuyền, hàng hóa đủ loại, người mua kẻ bán tấp nập nhộn nhịp bậc nhất nước ta lúc bấy giờ.
Mộ Tả quân Lê Văn Duyệt và người vợ (trái). |
Tài cai trị của ông còn thể hiện ở cách thi hành luật pháp, đó là nghiêm trị tham quan, phường trộm cướp, chăm lo tới đời sống dân chúng, binh sĩ. Cách đối nhân xử thế của ông khiến lòng người ai cũng kính phục, gọi ông là Ông Lớn Thượng, là Thượng Công. Ông đã thành lập hai cơ quan từ thiện để rèn luyện võ nghệ cho trẻ thích việc kiếm cung và dạy chữ nghĩa cho những trẻ học văn chương, tri thức.
Thời gian cai quản Nam Bộ, Tả quân Lê Văn Duyệt còn nổi tiếng với những thú vui như trò voi đấu hổ, chọi gà, trong đó mê nhất môn chọi gà. Có ghi chép rằng ông đã từng lập một thao trường để cho người, hổ và voi vật lộn nhau. Ông đã nuôi hàng trăm con gà, chó và mỗi khi ông ở nhà luôn có một con hổ và năm mươi con chó theo chân. Ông còn có những thú vui tao nhã là thích hòa mình giữa thiên nhiên cây cỏ, nghe hát tuồng.
Cuộc đời ông gắn liền với rất nhiều chuyện lạ, li kì. Trong “Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập” có chép những chuyện li kì xảy ra trước lúc ông qua đời. Rằng trước khi ông bị bệnh, thành Gia Định không hề có gió, vậy mà cán cờ ở trong thành bỗng dưng bị gãy.
Hơn một tháng sau, Lê Văn Duyệt đi tuần ở biên cảnh, vừa ra ngoài thành thì con voi ông đang cưỡi tự nhiên phục xuống đất rồi gầm lên, đánh mấy cũng không chịu dậy, ông bèn phải xuống để lấy ngựa mà đi. Đi được chừng một dặm, ngựa cũng chẳng chịu đi nữa, ông lấy làm lạ, bèn nói với người nhà rằng có lẽ mình sắp bị bệnh...
Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất sau một cơn bạo bệnh, thọ 69 tuổi, lúc đang đương chức. Dù là bậc công thần với nhiều công trạng nhưng ông phải chịu một cái án đau xót. Người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi, do bất mãn với việc viên quan Bố chánh Bạch Xuân Nguyên truy xét các tôi tớ của Lê Văn Duyệt, đã khởi binh chống lại triều đình. Cuộc nổi dậy sau đó bị dập tắt, Lê Văn Duyệt dù đã mất nhưng vẫn bị áp nhiều tội danh.
Mộ ông ở Gia Định bị san bằng và xiềng xích. Đến năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi, biết Tiên đế làm tội oan Lê Văn Duyệt, nên xuống chiếu hủy bỏ bia kết tội cùng xiềng xích và cho xây đắp lại mộ. Năm 1848, vua Tự Đức truy phong chức tước lại cho ông và ban phẩm hàm cho con cháu, cho đắp phần mộ cao rộng thêm và cho tu bổ lại đền thờ cạnh mộ.
Bên trong điện thờ ngài Tả quân hàng ngày đông đảo người dân đến hương khói. |
Từ năm 1914 đến 1974, toàn khu vực lăng mộ được xây dựng hoàn chỉnh, dân thường gọi là Lăng Ông. Do vị trí lăng Ông nằm ở khu vực Bà Chiểu (địa chỉ ngày nay là số 1 Vũ Tùng, phường 1, quận Bình Thạnh) nên người dân quen gọi chung là Lăng Ông - Bà Chiểu. Quần thể công trình đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1989.
Xưa kia Lăng Ông từng được ví như biểu tượng của Sài Gòn – Gia Định, gắn liền với con đường mang tên Lê Văn Duyệt. Sau năm 1975, đường Lê Văn Duyệt đổi tên thành đường Đinh Tiên Hoàng. Năm 2020, nhân Lễ giỗ lần thứ 188 của ông, UBND TP HCM đã đổi tên đường Đinh Tiên Hoàng (đoạn từ cầu Bông đến đường Phan Đăng Lưu) thành đường Lê Văn Duyệt như tên trước kia.
Ngày nay, hình tượng ngài Tả quân đã trở thành tín ngưỡng trong tâm thức của nhân dân Sài Gòn, miền Nam. Gần 200 năm qua, người dân đã nhiều lần đóng góp công sức, tiền của để tu sửa, tôn tạo khu mộ và đền thờ ông, hương khói thờ phụng với tất cả tấm lòng thành kính. Nơi đây, vì thế cũng trở thành điểm sinh hoạt tín ngưỡng, chốn linh thiêng của người Sài Gòn và các tỉnh miền Nam.