Mua đất ngay tình bỗng vướng kiện cáo
Theo hồ sơ, vợ chồng ông Lưu Bá Thông (SN 1972) và bà Trần Thị Thúy Mai (SN 1975, ngụ tổ 7, phường Lộc Phát, TP Bảo Lộc) qua người môi giới được giới thiệu thửa đất 84, tờ bản đồ 60, diện tích 6.669,8m2 là đất trồng cây lâu năm tại thôn 9, xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm.
Thửa đất đã được cấp GCNQSĐ; các giấy tờ tại VPĐKĐĐ đều thể hiện đây là tài sản riêng của bà Trần Thị Ánh Mai (SN 1987, ngụ thôn 9). Ngày 30/8/2018, vợ chồng ông Thông và bà Ánh Mai làm thủ tục mua bán công chứng, sau đó hoàn tất thủ tục sang tên tại Chi nhánh VPĐKĐĐ huyện. Bên chuyển nhượng cũng có giấy cam kết thửa đất là tài sản riêng, có xác nhận của mẹ người bán.
Sau khi nhận chuyển nhượng, vợ chồng ông Thông cải tạo chăm sóc cà phê thì chồng cũ bà Ánh Mai là ông Trần Quang Anh Dũng (SN 1978) vào ngăn cản, cho rằng đây là tài sản chung. Lúc này vợ chồng ông Thông mới biết ông Dũng khởi kiện đòi chia tài sản với vợ cũ.
Ngày 16/10/2018, Thẩm phán TAND huyện Bảo Lâm, ông Nguyễn Văn Linh, ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) 18/2018-QĐ-BPKCTT cấm chuyển dịch quyền về tài sản với tài sản đang tranh chấp và cho ông Dũng thu hoạch hoa màu. Đến 21/3/2019, Thẩm phán Linh ra quyết định hủy áp dụng BPKCTT số 01/2019-QĐ-BPKCTT.
Vợ chồng ông Thông liên tục có đơn khiếu nại, cho rằng việc giao cho ông Dũng khai thác hoa màu là không thoả đáng. Thực tế vợ chồng ông Thông đã bỏ tiền mua thửa đất trên, đứng tên giấy tờ hợp pháp, đã đầu tư tiền bón phân, cải tạo vườn. Hiện đã qua 3 vụ thu hoạch cà phê, vợ chồng ông Thông không được thu hoạch trên mảnh đất đã mua, mảnh đất thì vướng kiện cáo không thể chuyển nhượng.
Đơn của vợ chồng ông Thông cũng cho rằng TAND huyện đã vi phạm tố tụng khi quyết định áp dụng BPKCTT được gửi đầy đủ đến các cơ quan, nhưng quyết định hủy BPKCTT lại không giao gia đình bà và các cơ quan liên quan như Chi cục THADS, VKSND huyện.
Điều này dẫn tới những hệ lụy hiểu nhầm như tháng 10/2018, mẹ ông Thông bị bệnh cần tiền chữa trị, gia đình bán một thửa đất ở xã Lộc Phát nhưng không bán được vì các văn phòng công chứng đều “sợ” ông bà đang bị áp dụng BPKCTT.
Vợ chồng ông Thông làm đơn, cho rằng TAND Bảo Lâm vi phạm tố tụng trong việc giao quyết định, chậm đưa vụ án ra xét xử, đề nghị thay đổi thẩm phán có dấu hiệu không khách quan. Những nội dung trên không được TAND Bảo Lâm chấp nhận. Vợ chồng ông Thông tiếp tục khiếu nại lên TAND tỉnh.
Ngày 28/4/2021, TAND Lâm Đồng có quyết định chỉ chấp nhận nội dung chậm giải quyết vụ án; yêu cầu Chánh án huyện Bảo Lâm chỉ đạo thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải có kế hoạch, giải pháp thu thập chứng cứ liên quan; giải quyết dứt điểm vụ án.
Không đồng tình với quyết định trên, vợ chồng ông Thông gửi đơn ra Trung ương. Mới đây, ngày 25/6, UBTP Quốc hội đã có văn bản chuyển các nội dung khiếu nại đến Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC đề nghị xem xét, giải quyết theo đúng quy định, trả lời ông Thông và thông báo kết quả giải quyết đến UBTP Quốc hội.
Dấu hiệu vi phạm tố tụng
Trả lời PV về nội dung chậm giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn Đức, Chánh án TAND huyện cho biết đã có văn bản gửi Toà cấp trên về việc tính lại thời gian. Theo ông Đức, vụ kiện đúng ra đã đưa ra xử, nhưng do các bên bổ sung yêu cầu nên bị kéo dài.
Về phản ánh không tống đạt quyết định hủy áp dụng BPKCTT đến các cơ quan liên quan, ông Đức cho biết theo luật định phải gửi. Chánh án yêu cầu Thẩm phán Linh lục tìm tài liệu chứng minh đã gửi nhưng không có. Chánh án Đức cho rằng có thể do thất lạc ở văn phòng và sẽ kiểm tra lại sau.
PV xác minh ở VKSND huyện. Sau khi cho cấp dưới rà soát kiểm tra, ông Nguyễn Văn Du, Viện trưởng VKSND cho biết cơ quan này không nhận được quyết định hủy bỏ BPKCTT ngày 21/3/2019 của TAND cùng cấp.
Tiếp tục xác minh tại Chi cục THADS huyện, Chi cục trưởng Nguyễn Văn Tuấn cho biết trước đây vợ chồng ông Thông có đến hỏi tài liệu trên, qua kiểm tra đã trả lời người dân không nhận được quyết định hủy bỏ BPKCTT. Mãi đến ngày 12/11/2020, Chi cục mới nhận được Quyết định hủy bỏ BPKCTT đề ngày 21/3/2019 của TAND huyện. Nghĩa là cả năm sau khi Toà huyện ban hành.
Trở lại với vụ kiện, về căn cứ xác định thửa đất 84 là tài sản chung của ông Dũng và vợ cũ, Thẩm phán Linh cho rằng: Trước đây khi xử vụ ly hôn của ông Dũng với bà Ánh Mai, các bên thừa nhận thửa đất 84 là tài sản chung; do vợ chồng bỏ tiền ra mua rồi nhờ bố mẹ bà Ánh Mai đứng tên, sau đó bố mẹ bà Ánh Mai làm thủ tục cho tặng con gái. Khi thụ lý giải quyết vụ án chia tài sản, Thẩm phán Linh đi tìm lại những người liên quan để xác minh lại lời khai trên nhưng bố mẹ bà Ánh Mai lẫn người này không còn ở địa phương.
Phản bác lập luận trên của Thẩm phán Linh, ông Thông nói: “Chỉ căn cứ vào lời khai của các bên trong phiên toà ly hôn trước đó, cũng chưa xác minh thì chưa thể đủ căn cứ nói đó là tài sản chung của vợ chồng ông Dũng, trong khi các giấy tờ đều thể hiện thửa đất 84 là tài sản riêng của bà Ánh Mai, được cấp GCN”.
Điểm mâu thuẫn nữa là tháng 7/2018 vợ chồng ông Dũng ly hôn, trong phần nhận định của toà, vợ chồng ông Dũng kết hôn năm 2004, mâu thuẫn từ 2011. Năm 2012, người vợ từng nộp đơn ly hôn. “Nguồn gốc thửa đất do bố mẹ bà Ánh Mai mua từ 2014; đến ngày 1/7/2014 thì được cấp GCN; đến ngày 16/7 tiếp tục làm thủ tục cho tặng riêng con gái. Rõ ràng vợ chồng ông Dũng mâu thuẫn từ năm 2011, từng ra toà, còn thửa đất được bố mẹ bà Ánh Mai làm thủ tục vào năm 2014. Thử hỏi nếu tiền chung của vợ chồng mình, thì liệu ông Dũng có chấp nhận để bố mẹ vợ đứng tên rồi sau đó để bố mẹ vợ làm thủ tục cho tặng riêng cho vợ không”, ông Thông nói.