Tây Bắc là một vùng chiến lược quan trọng và là nơi hiểm yếu. Ở đây thực dân Pháp có thể uy hiếp căn cứ Việt Bắc và che chở cho Thượng Lào. Nhưng lực lượng quân Pháp ở đây lại yếu và sơ hở.
Vào đầu tháng 9 năm 1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Chủ trương của Trung ương Đảng là “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của địch mà đánh và hướng tiến công là Chiến dịch Tây Bắc. Mục đích: Tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, đánh bại ý đồ của thực dân Pháp lập “xứ Thái tự trị”, giải phóng một phần đất đai ở vùng Tây Bắc.
Lực lượng của thực dân Pháp có: 8 tiểu đoàn và 41 đại đội, phân tán trên 144 cứ điểm.
Lực lượng của quân đội ta tham gia chiến dịch gồm có: Các Đại đoàn 308, 312, 316, 351 và Trung đoàn 148. Đại đoàn 320 và 304 hoạt động ở vùng sau lưng thuộc Liên khu 3. Bộ Chính trị cử đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Hoàng Văn Thái là tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Chính trị và đồng chí Trần Đăng Ninh làm Chủ nhiệm Cung cấp.
Chiến dịch Tây Bắc được chuẩn bị chu đáo. Các đơn vị sẵn sàng xuất quân với một quyết tâm chiến đấu cao. Đêm ngày 10 tháng 10 năm 1952, bộ đội ta đã hành quân đến vị trí tập kết bí mật và an toàn.
Bác Hồ và đại tướng Võ Nguyên Giáp ở chiến khu Tây bắc |
Ngày 14 tháng 10 năm 1952, chiến dịch mở màn
Đợt I (từ ngày 10-10-1952 đến 23-10-1952)
Quân đội ta tiến công phân khu Nghĩa Lộ và tiểu khu Phù Yên. Ngày 14 tháng 10 năm 1952, Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316) tiêu diệt vị trí Ca Vịnh, Trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) tiêu diệt vị trí Sài Lương trong khi đó Đại đoàn 308 tiến vào vây Nghĩa Lộ, sở chỉ huy phân khu. Ngày 17 tháng 10 năm 1952, Trung đoàn 102 (Đại đoàn 308) chiến lĩnh trận địa Pú Chạng, quân đội ta được lệnh nổ súng sớm trước khi trời tối.
Mặc đạn pháo và bom cháy của quân Pháp, chỉ trong 10 phút quân đội ta đã vượt mở cửa đánh thọc sâu, lần lượt diệt hết các lô cốt, quân Pháp sống sót phải đầu hàng. Đêm 18 tháng 10 năm 1952, Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) tiêu diệt đồn Cửa Nhì, Trung đoàn 209 và 165 (Đại đoàn 312) nhanh chóng diệt các đồn lẻ trên dọc đường tiến quân. Tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148) từ Lào Cai tiến xuống giải phóng Quỳnh Nhai. Bộ đội địa phương đẩy mạnh hoạt động phối hợp với bộ đội chủ lực. Sau 13 ngày chiến đấu quân đội ta quét sạch quân Pháp ở khu vực giữa sông Thao và sông Đà, từ Vạn Yên lên tới Quỳnh Nhai.
Để đối phó với quân đội của ta. Thực dân Pháp phải tiếp viện thêm 9 tiểu đoàn cơ động xuống Tây Bắc, tổng số quân lính của Pháp lên tới 16 tiểu đoàn và 32 đại đội. Đồng thời, ngày 29 tháng 10 năm 1952, tướng Đờ Li-na-ret (Đe Linares) chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Bộ mở cuộc hành quân Lo-ren (Lorraine) trực tiếp đưa 3 binh đoàn cơ động lên Phú Thọ nhằm phá hoại hậu phương chiến dịch của quân đội ta, thu hút chủ lực của ta về, đỡ đòn cho Tây Bắc. Tại Phú Thọ Trung đoàn 246 và 176 (Đại đoàn 316) cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh ngăn chặn, quân Pháp đã bị tiêu hao. Ngày 9 tháng 11 năm 1952, Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) từ Tây Bắc quay về Phú Thọ chiến đấu, đã đánh phục kích trên đường số 2, tiêu diệt 400 quân Pháp, phá hủy 44 xe tăng và xe bọc thép. Giữ vững quyền chủ lực, Tổng quân ủy quyết định tập trung lực lượng tiếp tục cho đợt II của chiến dịch.
Đợt II (từ ngày 17-11-1952 đến ngày 23-11-1952).
Trong 3 ngày, 18, 19, 20 tháng 11 năm 1952, quân đội ta tiêu diệt một loạt cứ điểm Mường Lụm, Ba Lay, Mộc Châu. Các trận này nổi bật nhất là trận Mộc Châu, quân Pháp xây dựng đồn Mộc Châu trên ngọn núi đá hiểm trở, ở đây quân Pháp tăng cường phòng thủ đối phó, dù vậy chỉ sau 3 giờ chiến đấu Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316) đã tiêu diệt hoàn toàn 3 đại đội lính Pháp, giải phóng hơn 1000 dân ta bị quân Pháp bắt giữ. Trong khi đó cánh quân vu hồi chiến dịch gồm Trung đoàn 165 (Đại đoàn 312) và tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148) và bộ đội địa phương Yên Bái, Lai Châu lần lượt đánh chiếm Lai Châu, Tuần Giáo, Thuận Châu, Sơn La, tiêu diệt 1.500 lính Pháp, thừa thắng tiến về Điện Biên Phủ.
Ngày 22 tháng 11 năm 1952, toàn bộ quân Pháp ở các vị trí tập trung về Nà Sản, để tránh khỏi bị tiêu diệt. Quân Pháp vội vàng xây dựng Nà Sản thành một tập đoàn cứ điểm lớn có 21 điểm tựa và 8 tiểu đoàn.
Đợt III (từ 24-11-1952 đến ngày 10-12-1952).
Quân đội ta tiến công Nà Sản, tiêu diệt 2 cứ điểm ngoại vi Pú Hồng và Bản Hời. Đêm 30 tháng 11 năm 1952 quân Pháp thả thêm 2 tiểu đoàn dù xuống Nà Sản để đối phó. Đến ngày 10 tháng 12 năm 1952, nhận thấy đánh Nà Sản không chắc thắng, quân ta chủ động kết thúc chiến dịch.
Tại mặt trận sau lưng của quân Pháp ở Liên khu 3, Đại đoàn 320 và 304 đánh vào quân Pháp ở Nam Định và Ninh Bình, cùng lực lượng vũ trang địa phương đã tiêu diệt hàng loạt đồn bốt của quân Pháp, các căn cứ du kích của quân đội ta được mở rộng thêm.
Chiến dịch Tây Bắc thắng lợi, quân Pháp bị tiêu diệt 13.800 quân lính ở cả 2 mặt trận Tây Bắc và đồng bằng, nhiều tiểu đoàn và các đại đội thuộc các binh đoàn cơ động của quân Pháp bị diệt gọn. nhiều tên chỉ huy phân khu, tiểu khu, đồn trưởng bị diệt hoặc bị bắt, các quân ngụy của địa phương là chỗ dựa cho Pháp để chiếm đóng bị tan rã.
Ý nghĩa lịch sử
Chiến thắng Tây Bắc 1952 đã đi vào lịch sử kháng chiến giành độc lập dân tộc, là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự, chính trị, kinh tế, tạo ra thế và lực mới để tiến hành cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thượng tướng Lê Huy Vịnh, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng nhấn mạnh phát biểu trong cuộc hội thảo khoa học cấp Quốc gia: Chiến thắng Tây Bắc 1952 Tầm vóc lịch sử và bài học kinh nghiệm: Thắng lợi đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam, đưa nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển lên tầm cao mới; tạo tiền đề để quân và dân ta được thắng lợi quyết định trong Đông- Xuân 1953-1954, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)", "Có thể nói rằng, thắng lợi của chiến dịch là kết quả quá trình 7 năm chiến đấu gian khổ, hy sinh, là kết tinh sức mạnh tổng hợp của cả nước, trực tiếp là các đơn vị chủ lực của Bộ cùng quân và dân các tỉnh Yên Bái, Sơn La, Lai Châu và các chiến trường phối hợp.
Về quân sự, Chiến thắng Tây Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch (diệt, bắt sống và làm bị thương trên 6.000 tên địch), thu nhiều vũ khí trang bị. Đập tan thế bố trí lực lượng của địch tại vùng Tây Bắc và các cuộc hành quân, chi viện của địch, đẩy địch vào thế co cụm, phòng ngự bị động trên một số khu vực (Nà Sản).
Về chính trị, kinh tế, Chiến thắng Tây Bắc đã giải phóng được một vùng rộng lớn đất đai ở địa bàn chiến lược. Những cánh đồng rộng lớn như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Than Uyên, Quang Huy, Phù Yên lắm thóc, nhiều lâm thổ sản đã thuộc về ta, góp phần tạo thuận lợi cho việc xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân, cơ sở Đảng, cơ sở chính trị và tiềm lực cho kháng chiến; mở rộng hậu phương kháng chiến, tạo điều kiện thuận lợi cuộc tiến công chiến lược Đông xuân 1953-1954, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tạo ra thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam đó là giành và giữ vững được quyền chủ động trên chiến trường. Ta hoàn toàn chủ động lựa chọn chiến trường, mục tiêu và cách đánh với những lực lượng, quy mô khác nhau. Việc mở rộng được các vùng giải phóng, đặc biệt là kết nối thủ đô kháng chiến Việt Bắc với Tây Bắc, với Thượng Lào, Trung Quốc và kết nối với chiến trường vùng đồng bằng ở Liên khu 3, Liên khu 4 đã góp phần tăng thêm tiềm lực và tương quan sức mạnh giữa ta và địch, từng bước làm suy yếu và đẩy Pháp vào thế ngày càng bất lợi.
Chiến thắng Tây Bắc đã làm phá sản các chính sách quân sự, chính trị của thực dân Pháp tại Việt Nam, đẩy Pháp vào thế bị động về chiến lược, đồng thời giáng một đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp: Đập tan âm mưu củng cố “Xứ Thái”, “Xứ Nùng tự trị” và từng bước làm thất bại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”; đẩy thực dân Pháp vào thế bị động, lúng túng về chiến lược
Chiến thắng Tây Bắc đã khẳng định sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam, khả năng tác chiến, hiệp đồng binh chủng với quy mô lớn ở địa hình rừng núi, xa hậu phương, làm kinh nghiệm quý để ta tổ chức các chiến dịch với quy mô lớn hơn.
Chiến thắng Tây Bắc 1952 là nguồn động viên to lớn đối với quân và dân ta, qua đó góp phần củng cố niềm tin vào sự nghiệp cách mạng, đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, kiến quốc thắng lợi.
Chiến thắng Tây Bắc một mặt góp phần giải phóng phần lớn đất đai, dân số trên địa bàn chiến lược, mặt khác tạo điều kiện cho cách mạng Lào, đặc biệt là vùng Thượng Lào phát triển, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương Việt Nam-Lào-Campuchia từng bước phát triển tiến tới thắng lợi hoàn toàn.