Kỳ 2: Ông Mười Khôi – người Anh hùng chân đất
Nghe tin ông bị thương, ông Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy V đã thốt lên: “Mười Khôi nông dân nhưng ghê gớm lắm nhé, tội cho anh ta, uổng, tay đó như hùm… Mất Mười Khôi là mất một mũi tấn công…”.
Trái tim sâu nặng nghĩa tình
>> Kỳ 1: Về lại căn cứ
Nghe tin ông bị thương, ông Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy V đã thốt lên: “Mười Khôi nông dân nhưng ghê gớm lắm nhé, tội cho anh ta, uổng, tay đó như hùm… Mất Mười Khôi là mất một mũi tấn công…”.
![]() |
| Gia đình ông Mười Khôi. |
Ông Mười Khôi khẽ trở chân cho đỡ mỏi, chiếc chân trái bị cắt cụt trên đầu gối, mỗi khi trở trời lại nhoi nhói đau. Buổi chiều, ngôi nhà trên đường Quang Trung như sáng lên trong tiếng reo cười của bọn trẻ. Ông nghĩ, trẻ con bây giờ hồn nhiên, vô tư thật. Ông nhớ cái thời bom đạn triền miên, hết chống Pháp lại quay sang chống Mỹ, trẻ con quê ông suốt ngày nơm nớp cùng người lớn lo chạy giặc. Vợ chồng ông có 4 người con, đặt tên cho con để mong sớm có ngày được “Hòa - Chiến - Thắng - Trận”.
Ông nhớ thời kháng chiến chống Pháp, có lần cơ quan cấp cho ông thêm mấy chục lon gạo để về phụ với vợ nuôi con. Mải lo việc nước, việc nhà ông “khoán trắng” cho vợ, đây là lúc ông bày tỏ tình cảm với gia đình. Trên đường về, ghé vào thăm ông Tú ở Hòa Vang, cầm lòng không đậu trước cảnh nhà quá cực khổ, thiếu thốn của bạn, ông tặng hết số gạo đó rồi về nói lại với vợ.
Giờ đây, nhìn cảnh các cháu nhỏ ngây ngô chơi đùa bằng các trò dân gian, ông tiếc nuối cho các con mình một quãng đời không có tuổi ấu thơ. Nhưng bù lại, ông mừng vì mình có được một người vợ vừa lăn lộn với phong trào chống Pháp, chống Mỹ, vừa biết chia sẻ cùng ông và thay ông nuôi các con khôn lớn, trưởng thành.
|
Tết năm 1956, ông và ông Thắng gặp địch giữa ban ngày trên đường từ Bàu Gừng (Điện Nam) xuống Bàu Súng. Lần đó, hai anh em đi hợp pháp giữa trời thì bất ngờ gặp địch, 9 thằng. Ông bình tĩnh phân công: Nếu chúng nó tới, mi đánh 2 thằng, còn 7 thằng để tau! Cũng may là lần đó qua lọt. Kể xong, ông Thắng nói với mọi người: “Lúc nào khó, ở đâu khó ảnh đều có mặt, lúc nào cũng vui vẻ hát hò. Lãnh đạo mà tự tin bản lĩnh như thế thì cán bộ nào không phục, dân nào không tin!”.
Nghe các đồng chí kể chuyện xưa, ông như được sống lại những tháng ngày cũ, những ngày mà lằn ranh giữa sự sống và cái chết như trở bàn tay. Ngày đó, không dễ tìm được nơi ăn chốn ở an toàn, lúc rúc hầm bí mật, khi nằm dưới bàu nước, hết ngủ ở gò mả lại ngả lưng trong miếu hoang, đói khát, ốm đau như cơm bữa. Cũng vì sự an toàn cho chính mình và các đồng chí, ông đã mày mò một thời gian rồi đưa ra sáng kiến làm nắp hầm bí mật. Ông đưa một số cơ sở lên núi xẻ gỗ, đóng hàng trăm cái giao cho cán bộ xây hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ, nhờ đó tránh được nhiều tổn thất do địch gây ra…
|
Bị thương, được tổ chức đưa ra Bắc điều trị giữa lúc phong trào cách mạng tỉnh nhà đang phát triển mạnh, đối với ông thật là không đúng lúc. Về sau, ông mới biết là khi đó nghe tin ông bị thương, ông Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy V đã thốt lên: “Mười Khôi nông dân nhưng ghê gớm lắm nhé, tội cho anh ta, uổng, tay đó như hùm… Mất Mười Khôi là mất một mũi tấn công…”. Tuy vậy, ông vẫn tin là vắng ông, các đồng chí, đồng đội của mình vẫn ngày đêm sát cánh bên nhau chiến đấu cho đến ngày thắng lợi.
Nhắc đến đồng chí cũ, ông sực nhớ là chưa xem xong tập tài liệu vừa được anh Nguyễn Trung, Phó Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đưa cho ông nhờ ông xác minh một số sự kiện. Anh này hồi năm 1961 là cán bộ Văn phòng Tỉnh ủy, bị thương, đơn vị tìm mãi không thấy. Ai cũng nghĩ anh đã hy sinh hoặc bị địch bắt nên không đi tìm nữa. Ông nói không được, phải tìm đến cùng. Và tìm ra được, anh nằm một chỗ, vết thương đã có giòi. Giờ đây, mỗi khi có việc, anh lại tìm đến ông như tìm đến một ân nhân đã cứu mạng.
Ông lò dò chống nạng đến bên bàn giấy, lấy trong ngăn kéo ra tập nhật ký đã ngả màu. Trong đó, ông dành một phần ghi lại những kỷ niệm với các đồng chí, đồng đội. Như ông Phạm Nghiện bị địch bắt “đem về quận tra tấn, anh không khai một lời, đem phơi nắng không cho ăn uống 5-7 ngày. Nó đem ra cồn Lai bắn anh, cho nên nhân dân ở đây có thơ nhớ đồng chí, căm thù giặc: Ai qua đồn địch cồn Lai/ Nhớ người anh dũng, thù ai bạo tàn”. Hay chuyện hai đồng chí Sửu và Tùng bị địch phục kích bắn chết ở nổng cát Lệ Sơn, vì tên Cần phản bội, ông ghi lại trong nhật ký câu ca ngày đó: “Hai anh Tùng, Sửu vì nghĩa quên mình/ Bắt tên Cần phản bội hành hình nó đi”.
Mỗi lần đọc lại những trang đau buồn đó, mắt ông lại nhòe đi. Máu xương rất nhiều người, trong đó có đồng đội ông đã đổ xuống cho non sông này có được như ngày hôm nay. Ông lọ mọ bật công-tắc đèn rồi mở ra-đi-ô nghe tin tức buổi chiều. Công trình Đại thủy nông Phú Ninh sau 8 năm thi công đã tiến gần đến đích. Tuần trước, ông đã hứa với mọi người là sẽ vào dự lễ khánh thành công trình được xem là kỳ tích của nhân dân xứ Quảng này, dự kiến nhân lễ kỷ niệm ngày giải phóng quê hương năm sau.
Ông mong sớm đến cái ngày quan trọng đó. Sẽ có nhiều nụ cười rạng rỡ đi vào trong nhật ký của ông...
VĂN THÀNH LÊ
