Kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)
I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN
1. Bối cảnh đất nước
a) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ở miền Nam (1954-1975) là sự tiếp tục cuộc cách mang dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ khi ra đời (3-2-1930), Đảng ta đã chỉ rõ: đất nước ta vốn là một Tổ quốc thống nhất và nhân dân ta có truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm bảo vệ bờ cõi và cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược, chúng đã cùng bọn vua quan phong kiến đầu hàng, thống trị nhân dân ta, xã hội Việt Nam thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, mà chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Đảng ta gánh vác sứ mệnh lãnh đạo dân tộc giải quyết hai mâu thuẫn trên là thực hiện hai nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: chống đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất Tổ quốc và chống phong kiến, giành lại ruộng đất cho nông dân.
Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền
b) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước bị chia làm hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.
Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7 nnnm 1954 đến tháng 5 nnnm 1975.
Trong suốt thời gian đó việc hoạch định đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng phải phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ mục tiêu chung của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề chủ trương, sách lược và phương pháp tiến hành phải phù hợp với đặc điểm trên và sát đúng với điều kiện lịch sử cụ thể của từng miền. Đồng thời, phải xác định rõ vị trí cách mạng từng miền và mối quan hệ khhhng khít giữa cách mạng hai miền trong thế chiến lược chung của cả nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), xác định đường lối cách mạng của nước ta:
- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau.
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền Bắc là cccn cứ địa chung của cách mạng cả nước và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả nước.
Cách mạng miền
Việc xác định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là thành công lớn của Đảng ta.
Đó là đường lối duy nhất đúng, biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta.
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và là hậu phương lớn của cả nước, đã tạo cho cách mạng miền
Trên thực tế, việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau trên hai miền Nam - Bắc chẳng những không mâu thuẫn, mà lại từng bước đưa cách mạng hai miền cùng phát triển, cùng đi lên trong thế tương hỗ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
2. Bối cảnh quốc tế.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ, có tác động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới nối liền từ châu á sang châu Âu, không ngừng phát triển và củng cố về mọi mặt. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng miền Nam, thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận lợi chưa bao giờ có đối với cách mạng nước ta.
Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong tràon giải phóng dân tộc cuồn cuộn dâng cao ở châu á châu Phi và châu Mỹ latinh, hệ thống thuộc đia của chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đi vào quá trình tan rã. Cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và hoà bình ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển rộng khắp và liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày càng thay đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục suy yếu và khó khhhn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế tiến công. Cách mạng Việt
Thời kỳ này cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu nhưng chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì vẫn còn miếng đất để xảy ra chiến tranh. Lực lượng xâm lược gây chiến chủ yếu trên thế giới là đế quốc Mỹ. Chúng đang dẫn đầu các thế lực đế quốc hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên minh quân sự xâm lược, xây dựng các cccn cứ quân sự, phục hồi chủ nghĩa phátxít ở Tây Đức và quân phiệt ở Nhật Bản, nhóm lên những lò lửa chiến tranh ở châu Âu và châu á, ra sức chuẩn bị chiến tranh mới. Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn tồn tại. Nhân dân các nước đang đứng trước sự đe doạ hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Mặt khác, sự tàn sát và huỷ diệt ghê gớm trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và hậu quả của nó còn làm cho nhiều người lo ngại và lẫn lộn giữa chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Trong điều kiện đó đã nảy sinh nhiều tư tưởng và khuynh hướng của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc làm cho tình hình thế giới phức tạp.
Họ tuyệt đối hoá đường lối chung sống hoà bình, đi vào phòng ngự bị động, gây không ít khó khhhn cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt với phong trào giải phóng dân tộc. Trong tình hình đó, nhân dân ta tiến hành cách mạng giải phóng miền
Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thế giới tồn tại bốn mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới với các lực lượng tư bản chủ nghĩa thế giới; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc đòi độc lập với các lực lượng đế quốc thực dân; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản
Đế quốc Mỹ xâm chiếmvà thiết lập sự thống trị của chúng ở miền Nam nước ta đã làm nảy sinh và sâu sắc thêm cả bốn mâu thuẫn trên ở miền Nam. Đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu xâm lược lâu dài miền
Mỹ còn lôi kéo các nước tay sai đổ của đổ người vào cuộc chiến tranh của chúng ở miền
Điều đó nói lên rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu sắc
3- Kẻ thù chính của cách mạng miền
Chống đế quốc Mỹ với chính sách thực dân mới của chúng là điểm mới, mang tính đặc trưng của cách mạng miền
Đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền
Chính sách thực dân mới của Mỹ là con đẻ của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, của chính sách đế quốc thực dân. Nó ra đời trong cơn tổng khủng hoảng và trước nguy cơ sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đảng ta nhận biết sớm bản chất chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Nghị quyết 9 của Trung ương đã chỉ ra: 'Đặc điểm chủ yếu của chính sách thực dân là đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền tay sai, dùng viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam'.
Chính sách thực dân mới là hiện tượng mới, do vậy ta chưa thể hình dung và thấy rõ, đây đủ ngay trong thời gian đầu của cuộc cách mạng miền
Ngày càng hiểu sâu sắc bản chất và thủ đoạn xảo quyệt của chính sách thực dân mới của Mỹ, Đảng và nhân dân ta đã có những chủ trương, phương pháp đấu tranh sát đúng, thích hợp, từng bước đánh bại chúng. Phương pháp cách mạng đúng đắn nhất để đánh bại chủ nghĩa thực dân mới là phải kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với quân sự và hình thức đấu tranh chính trị với quân sự. Đó là quy luật cơ bản của phương pháp cách mạng bạo lực ở miền
Quá trình xâm lược và thống trị của đế quốc Mỹ ở miền
Song, đến giữa nnnm 1954 mới có thời cơ để Mỹ trực tiếp thực hiện âm mưu đồ của chúng. Ngày
Đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu của chúng sau Hiệp định Giơnevơ là: nhanh chóng hất cẳng Pháp, độc chiếm quyền thống trị ở miền Nam và Đông Dương; đàn áp phong trào cách mạng và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam nước ta, chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa và cccn cứ quân sự của chúng ở Đông Nam á.
Sự thật thì Mỹ đã chuẩn bị triển khai chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam từ trước. Mỹ đã nuôi dưỡng và đào tạo bọn tay sai ngay từ đầu những nnnm 50. Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký, đế quốc Mỹ đã tìm cách ép Pháp đưa Ngô Đình Diệm (tay sai của Mỹ) về giành ghế thủ tướng nguy của Bửu Lộc (tay sai của Pháp) vào ngày 7-7-1954, mở đầu quá trình Mỹ hất cẳng Pháp và cũng là mở đầu quá trình Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam nước ta.
Ngày 8-9-1954, Mỹ lôi kéo một số nước đế quốc và chư hầu lập ra khối SEATO, đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào khu vực bảo hộ của khối này. Cùng lúc, Mỹ xúc tiến việc mua chuộc và tiêu diệt các lực lượng thân Pháp ở miền
Từ đây, dân tộc ta phải trực tiếp đương đâu với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ xâm lược miền
II. NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ THỰC TIỄN KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
1- Kiềm chế đế quốc Mỹ để thắng chúng một cách có lợi nhất
Luôn tìm cách kiềm chế đế quốc Mỹ để tránh thế khó khhhn bất lợi và thắng chúng một cách có lợi nhất là một chủ trương nhất quán của Đảng ta. Chủ trương đó dựa trên cơ sở phân tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả nnnng hành động của đế quốc Mỹ trong các mối quan hệ quốc tế đương thời; mặt khác thấy rõ thế và lực cùng khả nnnng phát triển của ta.
Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy, tìm cách kiềm chế những âm mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện được.
Trước hết, tránh những khó khhhn, bất lợi sớm phải đụng đối với một kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần, mà lực lượng của ta còn hạn chế. Chúng ta có chính nghĩa và đang ở thế phát triển, nên có khả nnnng tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong nước và tranh thủ được các lực lượng dân chủ và hoà bình trên thế giới, có khả nnnng ngggn chặn, phá tan những âm mưu và hành động chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là phi nghĩa, không thể lừa bịp được mãi nhân dân và Quốc hội Mỹ. Nước Mỹ tuy giàu có bậc nhất thế giới, song không phải bọn xâm lược Mỹ muốn huy động bao nhiêu lực lượng vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta cũng được. Mỹ có chiến lược toàn cầu phản cách mạng, nhưng không phải lực lượng của Mỹ ở đâu cũng mạnh, chúng cũng phải tự kiềm chế.
Kiềm chế Mỹ chậm đưa quân vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta
Đầu những nnnm 40, đế quốc Mỹ đã có âm mưu xâm chiếm Việt Nam, nhất là từ đầu những nnnm 50 thì Mỹ triển khai ráo riết. Phân tích đúng âm mưu của Mỹ, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân kiên quyết đứng lên làm Cách mạng tháng Tám nnnm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, cũng như đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ trong kháng chiến 9 nnnm, nên đã kiềm chế và chặn đứng Mỹ đưa quân, kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta.
Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp, độc chiếm miền
Kiềm chế đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh từng bước
Bước vào những nnnm 60, lực lượng so sánh trên thế giới nghiêng hẳn về phía cách mạng và hòa bình. Khả nnnng ngggn chặn chiến tranh thế giới ngày càng nhiều. Chính sách 'bên miệng hố chiến tranh' của Mỹ cùng chiến lược quân sự mang tính chất phản công của chúng như 'trấn áp ồ ạt', 'trả miếng hàng loạt' đã bị phá sản. Để thích ứng với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược quân sự mới vừa có tính chất tiến công, vừa có tính chất phòng ngự. Đó là chiến lược 'phản ứng linh hoạt' với ba loại chiến tranh: 'chiến tranh thế giới', 'chiến tranh cục bộ', và 'chiến tranh đặc biệt'.
ở miền Nam nước ta từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã thực hiện 'chiến tranh đặc biệt' nhằm ba mục đích:
- Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực dân mới;
- Xây dựng cccn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội chủ nghĩa;
- Ngggn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam á.
Thực hiện ba mục đích trên, đế quốc Mỹ muốn khắc phục những mâu thuẫn đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa với lực lượng đế quốc chủ nghĩa, và mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp.
Nhưng trên thực tế, Mỹ thực hiện 'chiến tranh đặc biệt' chống lại nhân dân ta lại càng làm sâu sắc những mâu thuẫn đó.
Đảng ta chỉ ra rằng, cách mạng miền Nam đề ra nhiệm vụ chống đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trung lập là để chủ động kiếm chế địch trong loại 'chiến tranh đặc biệt' và tìm cách hoà hoãn mâu thuẫn giữa lực lượng đế quốc chủ nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên vấn đề miền Nam Việt Nam, tranh thủ giai cấp tư sản dân tộc ở miền Nam để chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nước dân tộc chủ nghĩa và khơi sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và đế quốc Pháp.
Đảng ta khẳng định: Chúng ta cần phải và có khả nnnng kiềm chế và thắng địch trong loại 'chiến tranh đặc biệt'. Bởi vì, khả nnnng này sẽ tttng lên nhiều, nếu chúng ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách lược khôn khéo biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong nội bộ địch, giữa đế quốc Mỹ và các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp, giữa Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam với bọn tư bản cầm quyền ở Đông Nam á, do đó mà làm cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được lực lượng của khối xâm lược Đông Nam á để mở rộng chiến tranh ở miền Nam. Mặt khác, chúng ta phải tranh thủ mở rộng phong trào chống đế quốc Mỹ gây chiến và xâm lược, làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc á, Phi và Mỹ latinh, ủng hộ cách mạng miền Nam ngày càng sâu rộng và thiết thực hơn nữa.
Kiềm chế và thắng Mỹ trong 'chiến tranh đặc biệt' là chúng ta đã đẩy Mỹ vào thế bị động leo thang chiến tranh từng bước.
Nhân dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo trên của Đảng Đó là quá trình nhân dân ta tiến hành ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự chống địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao để cô lập địch, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ đối với ta trên trường quốc tế, mà đấu tranh chính trị và quân sự ở miền Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao là rất quan trọng. Thực hiện quá trình đó, nhân dân ta đã phá tan các hành động chiến tranh của Mỹ - ngụy và làm phá sản các chiến thuật tân kỳ của chúng làm cho 'chiến tranh đặc biệt' của đế quốc Mỹ bị thất bại.
Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là nhằm thực hiện một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, nhằm thiết lập ở miền Nam chế độ thực dân mới. Tất cả các âm mưu, thủ đoạn chính trị và quân sự của Mỹ đêu nhằm mục đích đó. Do vậy, Mỹ thực hiện 'chiến tranh đặc biệt', hay trước thất bại nặng nề mà liều lĩnh tiến hành 'chiến tranh cục bộ' ở miền
Kiềm chế chiến lược 'chiến tranh cục bộ' của đế quốc Mỹ trên phạm vi chiến trường miền Nam
Giữa nnnm 1965, chiến lược 'chiến tranh đặc biệt' của Mỹ hoàn toàn phá sản, tổng thống Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực hiện 'chiến tranh cục bộ' và tttng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận định: trong khi chiến lược quân sự của địch đã có sự thay đổi và đã vượt khỏi khuôn khổ của 'chiến tranh đặc biệt' thì mục đích chính trị của đế quốc Mỹ. ở miền Nam vẫn là tiếp tục thực hiện chính sách thực dân kiểu mới, tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn chinh vào, miền Nam không những để tttng cường hoạt động quân sự và còn để tạo điều kiện ổn định ngụy quyền, ra sức xây dựng lực lượng tay sai của chúng về mọi mặt, tức là chúng cố dựng cho được chế độ thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam.
Đảng ta phân tích các mối quan hệ giữa Mỹ và các nước, các khu vực trên thế giới: rõ ràng là tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng của nước Mỹ không cho phép sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Mỹ thua trong 'chiến tranh đặc biệt', buộc phải đưa quân viễn chinh và chư hầu vào miền
Chúng tính, với 'chiến tranh cục bộ' sẽ thay đổi thế bị động của chúng thành thế chủ động và đẩy lực lượng cách mạng từ thế chủ động, thế thắng thành thế bị động và bị tiêu diệt.
Phân tích toàn diện thế và lực cách mạng cả nước ta lúc này, Đảng ta kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền
Đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng sự bất đông giữa Liên Xô và Trung Quốc để leo thang chiến tranh chống Việt
Như vậy, Đảng ta đánh giá đúng việc Mỹ đưa hàng chục vạn quân vào miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, đánh giá đúng lực lượng và khả nnnng của địch, đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả nnnng to lớn của nhân dân ta ở cả hai miền và các điều kiện quốc tế. Trên cơ sở đó, Đảng đã xác định quyết tâm chiến lược đúng đắn là: tập trung lực lượng cả nước, kiên quyết đánh địch và thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó. Chúng ta động viên lực lượng cả nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, đẩy chúng ngày càng sa lầy và thất bại lớn, đi tới giành thắng lợi quyết định ở miền Nam.
Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ ra là cần phải đề phòng đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng 'chiến tranh cục bộ' ra cả miền Bắc, phải xây dựng và bố trí lực lượng sẵn sàng đánh bại chúng ngay từ trận đầu nếu xảy ra.
Có đường lối đúng đắn lại được chỉ đạo thường xuyên và kịp thời của Trung ương và các cấp đảng bộ, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã phối hợp nhịp nhàng trong chiến đấu và xây dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả các kế hoạch quân sự của Mỹ - nguỵ, bẻ gẫy tất cả các cuộc phản công của địch, dồn địch vào thế tiến thoái lưỡng nan, trên cơ sở đó ta mở cuộc tiến công chiến lược Xuân 1968, làm phá sản kế hoạch 'chiến tranh cục bộ' của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã giữ vững được thế thắng, kiềm chế và thắng địch trong 'chiến tranh cục bộ' của chúng trên chiến trường miền Nam.
2- Biết giành thắng lợi từng bước.
Chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đánh thắng 'chiến tranh đặc biệt' của Mỹ - ngụy
Tháng 11-1959, xứ uỷ Nam Bộ quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị quyết 15 đi vào cơ sở giữa lúc quần chúng đang sôi sục cccm thù Mỹ - Diệm, đã bùng lên thành phong trào đông khởi khắp miền
Sau Đồng khởi, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ được thế làm chủ của nhân dân. Tháng 1-1961, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết chỉ rõ hướng phát triển của cách mạng miền
Dưới ánh sáng chỉ đạo của Nghị quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền
Những chiến thắng vang dội và có ý nghĩa bước ngoặt như chiến thắng ấp Bắc (2-1-1963), chiến thắng Bình Giã (12-1964), chứng tỏ sự trưởng thành toàn diện của lực lượng cách mạng, khẳng định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra phong trào thi đua diệt nguy, diệt Mỹ khắp miền Nam. Đến giữa nnnm 1965, quân nguỵ bị đánh tan vỡ từng mảng, ngụy quyền khủng hoảng triển miên, quốc sách 'ấp chiến lược' bị phá sản, 'chiến tranh đặc biệt' của Mỹ - ngụy bị thất bại.
Giữ vững thế thắng, thế tiến còng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh.
'Chiến tranh đặc biệt' của đế quốc Mỹ bị đánh bại. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố theo đuổi chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc Mỹ đã leo thang chiến tranh, tiến hành 'chiến tranh cục bộ' ở miền
Trước chiều hướng đó, tháng 3-1965, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11. Trên cơ sở phân tích hết sức khách quan các yếu tố của cuộc chiến tranh, Hội nghị đã nhận định: Mỹ sẽ mở rộng chiến tranh, đưa quân vào miền Nam thực hiện 'chiến tranh cục bộ' và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc thường xuyên và ác liệt hơn. Trung ương Đảng hạ quyết tâm: quyết thắng địch ở mức cao nhất trong 'chiến tranh đặc biệt' ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch nếu chúng biến chiến tranh ở miền Nam thành 'chiến tranh cục bộ' và kể cả khi chúng mở rộng 'chiến tranh cục bộ' ra hai miền Nam - Bắc nước ta.
Đây là một dự đoán rất đúng đắn và kịp thời.
Tháng 5-1965, Giônxơn tuyên bố đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền
Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao giành thắng lợi quyết định
Phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện cái gọi là học thuyết Níchxơn bằng chiến lược 'Việt Nam hoá chiến tranh' hòng kéo dài chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chúng đổ tiền của vào cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống cho 'Việt
Tháng 1- 1970, Trung ương Đảng ta họp Hội nghị lần thứ 18, Hội nghị đã phân tích sâu sắc tính chất thâm độc của chiến lược 'Việt Nam hoá' và những mâu thuẫn không thể khắc phục được của nó. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt cho cách mạng miền Nam là ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao làm thất bại âm mưu 'Việt Nam hoá chiến tranh' của đế quốc Mỹ.
Quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc những nhiệm vụ trên và đã giành thắng lợi quyết định. Tận dụng sai lầm của Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tháng 4-1970, Hội nghị cấp cao Đông Dương đã họp, hình thành mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương đoàn kết chống Mỹ, củng cố vững chắc thế liên hoàn Đông Dương là một chiến trường, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ ba nước Đông Dương chống Mỹ xâm lược. Mặt trận ngoại giao đã chủ động và phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và chính trị, liên tục tiến công đế quốc Mỹ tại Hội nghị Pari và trước dư luận toàn thế giới. Mũi tiến công quân sự đã giành thắng lợi rực rỡ, thực sự làm đòn xeo cho mũi tiến công chính trị và ngoại giao. NNNm 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và Campuchia giành thắng lợi lớn ở XXXmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum trên chiến trường Lào và giải phóng phần lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở Campuchia, chiến thắng đường số 9 -Nam Lào đã mở ra khả nnnng thực tế làm thất bại chiến lược 'Việt Nam hoá chiến tranh' của Níchxơn.
Ngày
Từ thắng lợi quyết định tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn .
Phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của chúng ở miền Nam, biến miền Nam thành một 'quốc gia' thân Mỹ, xoá bỏ chính quyền cách mạng.
Sau Hiệp định Pari, ở miền
Tháng 7-1973, Trung ương Đảng đã kịp thời họp Hội nghị lần thứ 21, phân tích rõ tình hình trên, âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ - nguỵ. Hội nghị cũng chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của địch.
Hội nghị nhận định thế và lực của cách mạng miền
Nghị quyết 21 của Trung ương giúp các đảng bộ miền
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm chiến trường và điểm mở đầu cho kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị theo dõi chặt chẽ và chỉ đạo kịp thời các bước tiến quân giành thắng lợi ở các chiến trường miền
Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đến 20-3-1975) đã điểm trúng huyệt vào Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của quân ngụy Sài Gòn, ngụy quyền hốt hoảng cho rút quân chiến lược khỏi Tây Nguyên, làm rối loạn quân ngujy. Ta giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên.
Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3-1975) đã phá tan âm mưu co cụm về giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế suy sụp, tan vỡ không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời cơ tổng tiến công và nổi dậy vào sào huyệt cuối cùng của địch: Chiến dịch giải phóng Sài Gòn và Nam Bộ - Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975). 17 giờ ngày
3- Sáng tạo nhiều cách đánh, cách thắng đế quốc Mỹ
Đánh thắng đế quốc Mỹ bằng phương pháp cách mạng bạo lực của quần chúng.
Đây là phương pháp nhất quán của Đảng ta suốt quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nó không ngừng được bổ sung và hoàn thiện trong quá trình cách mạng.
Nghị quyết 15 của Trung ương đã chỉ rõ: 'Ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ', 'con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân'.
Vào bước cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hội nghị trung ương lần thứ 21 lại khẳng định: tư tưởng cách mạng bạo lực là thống nhất của cả quá trình cách mạng miền
Bạo lực cách mạng trong cách mạng Việt
ý chí giành cho được độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc là truyền thống thiêng liêng của cả dân tộc ta, là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. ý chí đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu khẳng định khi cả dân tộc đứng lên làm Cách mạng tháng Tám 1945: Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do. 21 nnnm sau, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ ở thời điểm quyết liệt nhất, Người lại nói: Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Để giữ vững và thực hiện được ý chí dó, suốt 21 nnnm lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã vận dụng những giải pháp hết sức mềm dẻo và khôn khéo về chính trị, quân sự, ngoại giao. Do đó, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng ta đã giữ vững được tính độc lập sáng tạo về đường lối cách mạng, đã lãnh đạo tiến hành chiến tranh cách mạng thắng lợi, đồng thời góp phần cùng nhân dân các nước bảo vệ hoà bình thế giới. Một nước nhỏ, dân số không đông, kinh tế còn kém phát triển đã liên tục đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt
Từ khởi nghĩa quần chúng chuyển sang tiến hành chiến tranh cách mạng và kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng .
Đây là phương pháp nổi bật trong kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta ở miền
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sáng ngời chính nghĩa, đó là ưu thế chính trị rất lớn của ta, cũng là điểm yếu cccn bản của Mỹ - ngụy. Đảng và nhân dân ta đã biết phát huy ưu thế này mà liên tục tiến công địch trên mặt trận chính trị, những 'đội quân tóc dài', học sinh, sinh viên, giáo phái... đã tiến công chủ nghĩa thực dân mới bằng chính những luận điệu mị dân của chúng. Đấu tranh chính trị kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao đã tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ trước nhân dân toàn thế giới, hình thành ba tầng mặt trận: trong nước, Đông Dương và thế giới, cùng tiến công đế quốc Mỹ và bọn tay sai.
Từ thực hiện chiến tranh cách mạng chống lại chiến tranh thực dân mới, đồng thời cũng là làm chiến tranh giải phóng, tất yếu phải xây dựng được lực lượng quân sự và đấu tranh quân sự mạnh. Thực tiễn kháng chiến chống Mỹ cho ta thấy không có lực lượng quân sự và đấu tranh quân sự mạnh thì khó lòng đẩy mạnh các mặt đấu tranh chính trị và ngoại giao và không thể có thắng lợi triệt để như mùa Xuân 1975.
Mặt trận ngoại giao của ta đã phát huy tính chủ động liên tục tiến công địch, đồng thời phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với mặt trận chính trị và quân sự tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù. Đây là một nét đặc sắc trong lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta.
Đánh thắng quân viễn chinh Mỹ bằng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp.
Phát động chiến tranh nhân dân chống lại các thế lực xâm lược là truyền thống của dân tộc ta và cũng là đường lối nhất quán suốt 30 nnnm lãnh đạo chiến tranh của Đảng ta chống lại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến tranh nhân dân của ta phát triển tới đỉnh cao. Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân. Nhờ vậy, tuy quân số ta không đông, nhưng lực lượng vũ trang của ta được huy động và bố trí chiến lược đồng đều và rộng khắp, địch ở đâu cũng có thể bị tiến công.
Nét đặc trưng của chiến tranh nhân dân Việt Nam là cách đánh địch không chỉ ở ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, mà bất cứ ai từ già đến trẻ đều có thể góp sức mình tiến công giặc, góp phần giải phóng quê hương. Cách đánh sở trường, rộng khắp là đánh du kích. Bằng cách đánh này, mà vũ khí thô sơ của ta đã nhiều lần làm cho kẻ thù có vũ khí hiện đại phải chấp nhận thất bại. Kết hợp đánh du kích và đánh chính quy, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng vũ trang và sức mạnh của toàn dân đánh giặc.
Hình thức tác chiến trong chiến tranh nhân dân của ta vô cùng phong phú, đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn và sự kết hợp các quy mô tác chiến đó trong từng chiến dịch một cách linh hoạt và sáng tạo, làm cho kẻ địch không thể lường hết được các mũi tiến công của ta.
Chiến tranh nhân dân của ta tiến công địch cả bằng quân sự, chính trị và binh vận, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức này, nâng cao hiệu quả chiến đấu của ta lên rất cao.
Cả ba vùng miền núi, đồng bằng và đô thị đều có những hình thức tiến công địch phù hợp là nét đặc sắc trong chiến tranh nhân dân của ta. Miền núi lấy tiến công quân sự là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng tiến công cả quân sự và chính trị, và kết hợp hai hình thức đó; ở các đô thị ta tiến công địch bằng chính trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp tiến công quân sự với những lực lượng nhỏ, tinh nhuệ vào các sào huyệt của địch đạt hiệu quả chiến đấu cao.
4- Tổ chức và chỉ đạo phối hợp chặt chẽ cách mạng hai miền
Đất nước Việt Nam vốn thống nhất, từ kinh tế - xã hội, tiếng nói, tình cảm và truyền thống, cố kết nhau trong một cộng đồng bền vững từ lâu đời mà tồn tại và phát triển. Từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng, khối đoàn kết thống nhất của dân tộc được kế thừa và phát triển , trở thành truyền thống cách mạng.
Vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuy mỗi miền có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, nhưng đều có chung một mục tiêu là hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhiệm vụ cách mạng hai miền có mối quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy lẫn nhau. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã tổ chức, chỉ đạo sự kết hợp chặt chẽ cách mạng hai miền
Kết hợp về chiến lược, Đại hội III của Đảng ta đã xác định: 'Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta'. 'Cách mạng miền
Miền Bắc là hậu phương của tiền tuyến miền
Xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu là lĩnh vực kết hợp phong phú nhất của cách mạng hai miền. Miền Bắc bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời với chất lượng tốt nhất về lực lượng vũ trang, vũ khí, trang bị và mọi nhu cầu thiết yếu cho tiền tuyến miền
5- Đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế cao nhất
Đoàn kết quốc tế là tư tưởng chiến lược nhất quán và sách lược khôn khéo của Đảng ta. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Tại Hội nghị thành lập Đảng, trong Sách lược vắn tắt của Đảng đã khẳng định: 'Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, lại phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới' . Tư tưởng này là cơ sở cho sự phát triển chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta. Chính sách đó luôn được bổ sung, hoàn thiện và là một nguồn tttng thêm sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Cách mạng thế giới ở thế tiến công. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào tổng khủng hoảng. Các đế quốc bị kiệt quệ sau chiến tranh. Riêng đế quốc Mỹ trở thành giàu nhất và mạnh nhất về kinh tế, tài chính, quân sự và trở thành kẻ thù chung của các dân tộc trên thế giới.
Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt ở một số nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện tư tưởng hoà bình chủ nghĩa và chủ nghĩa cơ hội mang màu sắc dân tộc.
Trong tình hình đó, chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta nhằm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta vào thế tiến công chung của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đồng thời cùng nhân dân thế giới đấu tranh giữ vững hoà bình.
Chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta lúc này là: tiếp tục tttng cường sự đoàn kết nhất trí giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta với các nước anh em, đồng thời góp phần tttng cường sự thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống lại chính sách xâm lược và chiến tranh của đế quốc Mỹ. Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu á, châu Phi và châu Mỹ latinh. Với các nước, chúng ta xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đi đôi với việc xây dựng và tttng cường quan hệ giữa các chính phủ, cần mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước.
Nhờ có chính sách đoàn kết quốc tế đúng đắn lại có sách lược khôn khéo nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta đã giành được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ cả về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hoà bình, các tổ chức quốc tế và nhiều cá nhân có tên tuổi ở nhiều nước trên khắp thế giới. Đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần đưa sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi.
Trong chính sách đoàn kết quốc tế của mình. Đảng ta đặc biệt chú ý xây dựng và củng cố khối đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Trên thực tế, ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã hình thành mặt trận chung chống đế quốc Mỹ xâm lược, phối hợp chặt chẽ trong chiến đấu. Đông Dương thành một chiến trường, cùng chiến đấu và cùng chiến thắng đế quốc Mỹ.
Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng nên có mâu thuẫn với cả thế giới, là kẻ thù chung của nhân dân thế giới. Đó là một cơ sở để nhân dân ta thực hiện trên thực tế mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Chưa bao giờ nhân dân thế giới đến với nhân dân ta nhiều và mạnh mẽ như thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân ta đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận đông đảo, rộng khắp, sôi nổi ở trong nước, trên bán đảo Đông Dương và trên toàn thế giới, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ, kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta và cũng là kẻ thù chung của nhân dân thế giới.
Sự giúp đỡ về vật chất của bạn bè trên thế giới là cực kỳ to lớn. Nhân dân ta đã sử dụng vũ khí, trang bị và các phương tiện chiến tranh của các nước anh em và bạn bè giúp đỡ với hiệu quả cao.
Đảng ta xác định: 'Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính', 'nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế', 'kể cả nhân dân Mỹ'. Thực tiễn đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược đã làm sáng tỏ phương châm đó.