Kinh nghiệm giải quyết vấn đề ruộng đất trong cách mạng Việt Nam

Trước khi thực dân Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam trải qua hàng ngàn nnnm dưới chế độ phong kiến, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, ruộng đất thuộc quyền chiếm đoạt và chi phối của giai cấp địa chủ phong kiến. Những hình thức bóc lột phổ biến trong xã hội phong kiến là địa tô, nợ lãi và thuế. Trong đó, hình thức đặc trưng là địa tô phong kiến, nó đã kìm hãm phát triển lực lượng sản xuất và là nguồn gốc khổ cực của người nông dân. Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và bọn tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giai cấp nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.

Cuối thế kỷ XIX, vua quan phong kiến triều Nguyễn đầu hàng và bán rẻ nước ta cho thực dân Pháp. Trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành ở nước ta. Thực dân Pháp đã đặt hết thảy nền kinh tế nước ta vào tay các tổ chức tư bản độc quyền, đứng đầu là tập đoàn tư bản tài chính 'Ngân hàng Đông Dương'. Sự thống trị của tư bản độc quyền không có nghĩa là quan hệ sản xuất phong kiến bị loại trừ; trái lại, chúng duy trì nó để kìm hãm sự phát triển và làm cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chế độ thuộc địa.

Về chính trị, thực dân Pháp sử dụng bộ máy chính quyền phong kiến làm tay sai cho chế độ thực dân; mặt khác, chế độ thực dân làm chỗ dựa tồn tại của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm bóc lột, đàn áp nhân dân Việt Nam.

Xã hội Việt Nam lúc này tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Xã hội Việt Nam từ chỗ là xã hội phong kiến chuyển thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Tính chất này được thể hiện trong nền kinh tế là chế độ chiếm hữu ruộng đất và đời sống nông dân.

I. ĐẶC ĐIỂM SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT VÀ ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN VIỆT NAM
DƯỚI CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHONG KIẾN

1. Ruộng đất bị địa chủ phong kiến chiếm hữu


Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ở nước ta đất trồng trọt chỉ có 4,3 triệu hécta, trong đó, khoảng 54,5% diện tích do giai cấp địa chủ phong kiến và các thế lực nhà thờ chiếm hữu. Số còn lại thuộc 37,8% số hộ nông dân, 62,2% số hộ nông dân không có ruộng.

Đặc biệt ở Nam Bộ, ruộng đất tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến với mức độ cao hơn. Trong tổng số 2,3 triệu hécta ruộng đất ở Nam Bộ, địa chủ chiếm hữu khoảng 56,9%. 6300 địa chủ lớn (tổng số toàn quốc là 6530) đã chiếm hữu 45% tổng số ruộng đất ở Nam Bộ, 67,6% số hộ nông dân không có ruộng.

ở Bắc Bộ và Trung Bộ, nơi đất hẹp người đông, mức chiếm hữu ruộng đất của địa chủ tuy thấp hơn Nam Bộ, nhưng tỷ lệ tập trung ruộng đất trong tay giai cấp địa chủ khá lớn. Theo thống kê của ủy ban cải cách ruộng đất trung ương (sau sửa sai) tại 3653 xã thuộc vùng đồng bằng và trung du miền Bắc nnnm 1945 địa chủ chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất. Phần lớn ruộng đất công do địa chủ lũng đoạn, thao túng. Thực chất ruộng công thuộc quyền chi phối của giai cấp địa chủ.

Tóm lại, những số liệu trên đã phản ánh một thực tế là dưới chế độ thực dân phong kiến, giai cấp địa chủ chiếm hữu trên 50% tổng số ruộng đất ở nước ta, chúng áp bức, bóc lột nông dân hết sức nặng nề. Dưới đây là tình hình phân phối ruộng đất ở miền Bắc nnnm 1945.

b) Chiếm hữu ruộng đất của tư bản Pháp.

Thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, duy trì quan hệ sản xuất phong kiến, đồng thời cho phép tư bản Pháp chiếm hữu và khai thác ruộng đất ở nước ta trên quy mô lớn.

Đến nnnm 1890, ở Việt Nam đã có 126 đồn điền, hầu hết là của bọn cố đạo, bọn võ quan và thực dân người Pháp. Số ruộng đất mà chúng khai thác ở Trung Kỳ là 3484 hécta, Bắc Kỳ là 3068 hécta và Nam Kỳ là 4346 hécta.

Trong khoảng thời gian từ nnnm 1890 đến nnnm 1900, tư bản Pháp chiếm 320.000 hécta ruộng đất trồng lúa và cao su. Đặc biệt từ nnnm 1907 trở đi, thực dân Pháp đổ xô vào khai thác vùng đất đỏ Nam Bộ, và Nam Trung Bộ, đồng thời mở rộng các đồn điền ở Sơn Tây, Bắc Giang, Thái Nguyên. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa bằng việc mở rộng các đồn điền. Từ nnnm 1921 đến nnnm 1926, chúng chiếm trên 100.000 hécta đồn điền cao su, từ nnnm 1926 đến nnnm 1928 chúng chiếm 215.000 hécta.

Như vậy, từ khi trở thành thuộc địa của Pháp cho đến nnnm 1930, ruộng đất ở Việt Nam tập trung trong tay tư bản Pháp lên tới 1.025.000 hécta (riêng đồn điền cao su là 706.000 hécta).

Ngoài ra ruộng đất còn tập trung trong tay bọn tư bản tài chính (Đông Pháp ngân hàng, Địa ốc ngân hàng và các chi nhánh của nó). Nông khố ngân hàng có ở hầu khắp các tỉnh bằng hình thức cho vay rồi chiếm đoạt ruộng đất của cả địa chủ và nông dân.

Qua nghiên cứu chế độ ruộng đất thời kỳ thực dân, phong kiến, có thể rút ra mấy kết luận:

- Đế quốc Pháp xâm lược nước ta đã duy trì chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến trong việc chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, đã tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của chế độ thực dân ở Việt Nam.

- Địa chủ và tư bản thực dân nắm trong tay khoảng 70% ruộng đất, trong khi nông dân chiếm trên 90% số dân chỉ có khoảng gần 30% ruộng đất. Mức chiếm hữu ruộng đất như trên tạo cho giai cấp thống trị có đầy đủ phương tiện vật chất để áp bức bóc lột nông dân, làm tuyệt đại đa số nông dân ta sống trong cảnh bần cùng, đói rách và dân tộc ta bị kìm hãm trong vòng nghèo nàn, lạc hậu.

2- Đời sống nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thống trị

a) Sự bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến.

Dựa vào sự chiếm hữu ruộng đất, giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột nông dân dưới hình thức địa tô, nợ lãi và thuê mướn bóc lột nhân công.

Địa tô là hình thức bóc lột phổ biến của giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam (chủ yếu là tô hiện vật). Có ba hình thức địa tô sau đây:

Tô đóng: tuỳ theo từng loại ruộng đất thuộc hạng nào (tốt hay xấu, xa hay gần, dễ làm hay khó làm...), địa chủ ấn định trước số lượng thóc mà tá điền phải nộp tô trên mỗi mẫu bất kể vụ đó tá điền có thu hoạch được hay không. Hình thức này thường được bọn địa chủ lớn áp dụng. Với hình thức tô đóng, địa chủ có hai cái lợi: một là, nắm chắc phần sản phẩm trong tay; hai là, không phải bỏ công quản lý. Còn đối với nông dân, được mùa đã vậy, chẳng may mất mùa, họ chỉ còn cách đi vay lãi nộp tô cho địa chủ.

Tô rẽ: trên cơ sở thu hoạch cụ thể của vụ trước, địa chủ chia với nông dân theo một tỷ lệ ấn định trước (thường là 50%- rẽ đôi cho mỗi bên). Chi phí ruộng đất hoàn toàn do nông dân bỏ ra, sản lượng càng cao thì mức tô rẽ càng tttng, do vậy địa chủ bóc lột được nhiều. Hình thức này đã kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất trong nông nghiệp. Tô rẽ thường được bọn địa chủ nhỏ áp dụng.

Tô lao dịch: địa chủ lấy vụ chính, mọi việc làm trong vụ này đều do nông dân, còn địa chủ quản lý. Bằng hình thức này, địa chủ vắt kiệt sức lao động của nông dân.

Ngoài địa tô chính, nông dân còn phải nộp cái gọi là 'địa tô phụ' dưới hình thức lễ lạt, quà cáp, biếu xén...

Bóc lột bằng nợ lãi là hình thức bóc lột phổ biến của địa chủ và là gánh nặng đổ lên đầu nông dân. Sau khi nộp tô cho địa chủ, người nông dân không còn đủ sản phẩm để nuôi sống gia đình, phải đi vay lãi. Đây là dịp để địa chủ thực hiện việc tước đoạt nốt ruộng đất và tài sản cuối cùng của nông dân.

Bóc lột bằng chế độ làm công nô lệ là hình thức bóc lột phổ biến của địa chủ vừa và nhỏ. Quan hệ giữa nông dân và địa chủ là quan hệ lệ thuộc giữa tá điền với chúa đất.

b) Sự bóc lột của tư bản Pháp

Trong số hơn một triệu hécta ruộng đất mà bọn tư bản Pháp chiếm đoạt, gồm một phần ba là ruộng lúa. Khai thác loại ruộng đất này, về cơ bản tư bản cũng áp dụng phương thức bóc lột phong kiến. Điểm khác ở đây là bộ máy chính quyền thực dân trực tiếp bảo vệ quyền lợi của các chủ đồn điền.

Số đồn điền trồng cây công nghiệp, tư bản Pháp trực tiếp kinh doanh và thuê mướn nhân công. Đồn điền trồng cây công nghiệp nằm tại những vùng đất mới khai phá (đất rộng, người thưa). Chủ đồn điền Pháp mộ phu phần lớn ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Người nông dân bị dồn vào thế cùng quẫn bởi sưu cao, thuế nặng, địa tô, nợ lãi... cuối cùng phải rời bỏ quê quán vào làm thuê cho các chủ đồn điền. Tại đây, bọn tư bản thực dân bóc lột lao động làm thuê một cách tàn bạo, thân phận người lao động trở thành thân phận người nô lệ.

Ngoài các hình thức bóc lột trên đây, địa chủ và thực dân Pháp còn bóc lột nông dân bằng sưu cao, thuế nặng như: thuế đinh, thuế điền, thuế ngoại phụ. Thuế đinh bổ vào người nam giới từ 18 tuổi đến 60 tuổi, thuế điền đánh vào các loại ruộng, thuế phụ thu lạm bổ đánh vào người dân cày... Chính quyền thực dân dùng thuế quan nhằm bảo hộ công thương nghiệp chính quốc, kìm hãm sự phát triển kinh tế thuộc địa, triệt tiêu các nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, với toàn bộ thiết chế chính trị của chúng, chính quyền thực dân cùng vua quan phong kiến và địa chủ đã kìm hãm nền kinh tế Việt Nam trong phương thức sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Thân phận người nông dân Việt Nam chỉ là nô lệ. Vì vậy, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày là yêu cầu khách quan, hợp quy luật của xã hội Việt Nam, là nguyện vọng tha thiết của nông dân.

II- QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1- Thời kỳ 1930-1945


Trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, trong hơn nửa thế kỷ, nhiều giai cấp và tầng lớp đã đứng lên lãnh đạo nhân dân ta chống xâm lược. Nhưng do hạn chế về mặt giai cấp, ở nước ta, chưa có một tầng lớp hay một giai cấp nào nhận thức được tính bức thiết của vấn đề ruộng đất cũng như mối quan hệ khhhng khít của nó với vấn đề giải phóng dân tộc. Đó chính là nguyên nhân khiến cho họ không lôi kéo được đông đảo nông dân tiến hành giải phóng dân tộc và không tránh khỏi thất bại.

Chỉ đến khi giai cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị thì vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân mới được nhận thức đúng vị trí quan trọng của nó và được đặt thành một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Trong Chính cương vắn tắt và Điều lệ vắn tắt do đồng chí Nguyễn ái Quốc khởi thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3-2-1930) đã chỉ rõ: 'Cách mạng Việt Nam là tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản'.

Luận cương chính trị tháng 10-1930 khẳng định tính chất của cách mạng Việt Nam là 'cách mạng tư sản dân quyền, nó phải giải quyết hai nhiệm vụ chiến lược là đánh đế quốc giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân. Vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa'.

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, đồng chí Nguyễn ái Quốc và Đảng ta đã nhận thức đúng vị trí của vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến và đặt thành một nhiệm vụ chiến lược gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Cương lĩnh của Đảng đã định hướng đúng cho sự vận động phát triển của cách mạng Việt Nam.

Giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân chính là bảo đảm quyền dân chủ cơ bản về mặt kinh tế của nông dân. Nó không chỉ được thực hiện trong cách mạng dân tộc dân chủ, mà còn được định hướng cho sự phát triển tiếp theo trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Ngay sau khi Đảng ta ra đời, theo phương hướng mà Cương lĩnh vạch ra, một phong trào cách mạng của công - nông dưới sự lãnh đạo của Đảng diễn ra hết sức sôi nổi, đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Lần đầu tiên nhân dân ta đã nắm quyền ở một số địa phương, thực hiện ngay những quyền dân chủ đối với nông dân, trong đó có vấn đề ruộng đất cho dân cày.

Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), Đảng lợi dụng những hình thức hợp pháp, mở rộng hoạt động và ảnh hưởng của mình ở cả thành thị và nông thôn. Đảng đặc biệt quan tâm đến vấn đề nông dân. Tác phẩm Vấn đề dân cày của các đồng chí Trường - Chinh và Võ Nguyên Giáp xuất bản nnnm 1937-1938 đã phản ánh tình cảnh giai cấp nông dân Việt Nam, sự bóc lột tàn bạo của đế quốc và phong kiến đối với nông dân và chỉ rõ: Chỉ có đánh đổ đế quốc và phong kiến thì người nông dân mới chấm dứt được tình cảnh khổ cực của mình.

Từ nnnm 1939 đến nnnm 1945, mục tiêu trực tiếp của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết. Vì vậy, Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng thổ địa để tập hợp lực lượng toàn dân tộc chống đế quốc, phátxít. Đảng ta chỉ rõ: Trong giai đoạn hiện tại ai cũng biết rằng, nếu không đánh đuổi được giặc Pháp - Nhật thì vận mệnh của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được.

Về vấn đề ruộng đất trong thời kỳ này, Đảng nêu khẩu hiệu tịch thu tài sản của bọn phátxít Nhật - Pháp và bọn việt gian, thi hành giảm tô, chia lại công điền theo chương trình của Mặt trận Việt Minh.

Vấn đề ruộng đất được Đảng ta đặt ra ở đây tuy mới chỉ là chủ trương, chính sách, song nói có ý nghĩa thực tiễn là: chủ trương, chính sách đó đã phù hợp với lợi ích của giai cấp nông dân nên đã sớm phát huy tác dụng, phát triển phong trào cách mạng của quần chúng, tạo nên sức mạnh vật chất, góp phần cùng toàn dân tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

2- Thời kỳ 1945-1953

Sau khi giành chính quyền, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để giữ vững nền độc lập dân tộc. Vấn đề ruộng đất được Đảng đề ra thành một hệ thống các chính sách và từng bước giải quyết ruộng đất cho nông dân, cụ thể là:

Tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp để chia cấp cho nông dân. Tính đến trước cải cách ruộng đất, đã tịch thu 81,3% ruộng đất từ tay thực dân Pháp chia cho nông dân.

Chia cấp lại công điền, công thổ cho nông dân. Tính đến nnnm 1953 đã chia cấp 77,8% ruộng công điền cho nông dân.

Tạm giao ruộng đất của địa chủ, việt gian và địa chủ vắng mặt cho nông dân, 84,7% loại ruộng đất này đã được chia cho nông dân.

Nhà nước đã ban hành sắc lệnh giảm tô 25%, cho nông dân lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, thu thuế nông nghiệp (nnnm 1952).

Tính chung lại, đến nnnm 1953 đã có 58,3% tổng số ruộng đất của tư bản Pháp, địa chủ, cùng ruộng công được chia cho nông dân. Kết quả trên đây có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, quyền sở hữu ruộng đất đã thay đổi, từng bước chuyển từ tay giai cấp địa chủ phong kiến và đế quốc sang tay nông dân, thu hẹp thế lực kinh tế và chính trị của chúng, tttng cường thế và lực của chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đó, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, củng cố liên minh công - nông - nòng cốt của mặt trận dân tộc thống nhất, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.

3- Thời kỳ 1953-1957

Việc thực hiện từng bước chính sách ruộng đất của Đảng từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến đầu nnnm 1953 đã tạo ra những chuyển biến sâu sắc về sở hữu ruộng đất và quan hệ giai cấp ở nông thôn. Tuy vậy, chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến chưa bị thủ tiêu, khẩu hiệu 'Người cày có ruộng' chưa được giải quyết cccn bản, giai cấp địa chủ vẫn tồn tại. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, Đảng ta tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất, hoàn thành nhiệm vụ chống phong kiến. Hơn thế nữa, sự phát triển của cuộc kháng chiến đến nnnm 1953 đã đi vào giai đoạn quyết định, đòi hỏi cấp thiết phải thực hiện triệt để nhiệm vụ chống phong kiến để bồi dưỡng lực lượng kháng chiến.

Tháng 1-1953, Ban chấp hành trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 4 kiểm điểm chính sách ruộng đất trong kháng chiến và phát động triệt để giảm tô nhằm bước đầu thực hiện yêu cầu về kinh tế của nông dân.

Tháng 11-1953, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 5 quyết định cải cách ruộng đất, đề ra chủ trương, biện pháp tiến hành cải cách ruộng đất...

Cải cách ruộng đất được thực hiện ngay trong lúc cuộc kháng chiến đang trên thế đi tới thắng lợi. Đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng, đã kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thành quả của nó đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.

Hoà bình lập lại, miền Bắc bước vào giai đoạn mới, Đảng tiếp tục đẩy mạnh cải cách ruộng đất, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo điều kiện cho việc khôi phục và phát triển kinh tế để củng cố miền Bắc làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Kết quả đã phát động quần chúng giảm tô trong tám đợt bao gồm 1875 xã với 1.106.955 hécta ruộng đất, tiến hành cải cách ruộng đất trong 5 đợt bao gồm 3653 xã (toàn bộ vùng đồng bằng và trung du miền Bắc), đã chia 810.000 hécta ruộng đất cho hơn 2 triệu hộ nông dân, tức 72,8% tổng số hộ nông dân ở miền Bắc.

ở miền núi, do những điều kiện đặc thù về kinh tế và xã hội không nằm trong diện cải cách ruộng đất. ở đây, việc hoàn thành cải cách dân chủ được thực hiện kết hợp với cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp vào những nnnm 1959-1961.

Như vậy, thực hiện cải cách ruộng đất, đã xoá bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất và bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, xác lập quyền sở hữu ruộng đất của nông dân, bước đầu thực hiện dân chủ hoá về mặt kinh tế đối với nông dân - cơ sở của dân chủ về mặt chính trị ở nông thôn. Trên cơ sở đó, nnnng lực sản xuất trong nông nghiệp được giải phóng, sức lao động và ruộng đất của nông dân được gắn với nhau trong quá trình sản xuất.

Trong khi tiến hành cải cách ruộng đất, bên cạnh những thắng lợi cccn bản, Đảng ta đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo thực hiện mà sau một thời gian mới phát hiện được. Do chủ quan, giáo điều, không xuất phát đầy đủ từ thực tiễn nước ta, nên không thấy rõ được những thay đổi quan trọng về sở hữu ruộng đất ở nông thôn Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là trong 9 nnnm kháng chiến. Từ đó, trong chỉ đạo tiến hành cải cách ruộng đất đã cường điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh, gây ra tình trạng đánh nhầm vào nội bộ nông dân, nhất là trung nông lớp trên. Trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, cho là bị địch lũng đoạn. Từ đó, trong chỉnh đốn Đảng đã dẫn đến việc xử lý oan những cán bộ, đảng viên tốt. Sai lầm này đã gây ra một số tổn thất cho Đảng.

Việc tổ chức ra một hệ thống tổ chức chỉ đạo cải cách ruộng đất từ Trung ương đến cơ sở tách rời sự chỉ đạo và kiểm soát của các cấp uỷ đảng ở khu, tỉnh, huyện; hệ thống này được giao quyền hạn quá rộng, dẫn đến mệnh lệnh, độc đoán, hạ thấp vai trò lãnh đạo của các cấp bộ đảng, nhiều cán bộ theo đuôi quần chúng, theo lập trường tư tưởng của giai cấp nông dân để giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội nông thôn.

Hội nghị lần thứ 10 (khoá II) của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm trong thực hiện cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công khai tự phê bình và kên quyết sửa chữa sai lầm. Thái độ chân thành của Đảng được nhân dân đồng tình ủng hộ, mặc dù có khó khhhn nhưng chỉ sau hai nnnm việc sửa sai đã hoàn thành, uy tín của Đảng được nâng cao.

Cùng với việc xác lập quyền làm chủ ruộng đất của nông dân, tháng 5-1955, Quốc hội đã ban hành các chính sách kinh tế quan trọng nhằm khuyến khích khôi phục và phát triển kinh tế hộ nông dân, nội dung cơ bản là bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất, bảo vệ tài sản của nông dân và các tầng lớp khác, khuyến khích khai hoang phục hoá (khai hoang được miễn thuế 5 nnnm, phục hoá được miễn thuế 3 nnnm), tttng vụ, tttng nnnng suất, tự do thuê mướn nhân công, tự do thuê mướn trâu bò, tự do vay mượn, khuyến khích các hình thức đổi công tương trợ, khuyến khích khôi phục các nghề thủ công truyền thống, bảo hộ, khuyến khích, khen thưởng nông dân sản xuất giỏi, nghiêm cấm phá hoại sản xuất...

Vụ chiêm nnnm 1955, Chính phủ ban hành chính sách thuế sửa đổi, giảm bớt mức đóng góp của nông dân, đồng thời miễn thuế cho hộ quá nghèo.

Chính phủ vận động nông dân phát triển chhhn nuôi trâu bò, sửa chữa đê điều, làm thuỷ lợi, khôi phục các hệ thống thuỷ nông.

Như vậy, sau khi được giải phóng khỏi phương thức sản xuất phong kiến, nguyện vọng phát triển kinh tế của nông dân được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm bằng các chính sách phù hợp và được pháp luật bảo hộ, đã làm cho sức sản xuất ở nông thôn nước ta cuối thập kỷ 50 có bước tiến bộ rõ rệt. ở vào thời điểm đất nước vừa trải qua chiến tranh, kinh tế còn nghèo nàn, kỹ thuật còn lạc hậu, quan hệ hợp tác giúp đỡ quốc tế chưa có gì đáng kể, nhưng với hệ thống chính sách đúng đắn, đã đưa lại quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân, giải phóng mọi nnnng lực sản xuất trong nông nghiệp, đã tạo ra động lực mới phát triển sản xuất góp phần khôi phục kinh tế và ổn định đời sống nhân dân.

Về kinh tế, tổng sản lượng và thu nhập bình quân đầu người về lương thực đã vượt nnnm 1939 (nnnm cao nhất dưới thời kỳ thực dân Pháp). Động lực của kinh tế hộ nông nghiệp đã được phát huy trong những nnnm trước tập thể hoá nông nghiệp.

4- Thời kỳ 1958-1980

a) ở miền Bắc

Sau thời kỳ khôi phục kinh tế, Đảng chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp bằng hình thức hợp tác xã. Vấn đề ruộng đất được đặt ra và giải quyết thông qua phong trào hợp tác hoá là một nội dung cơ bản của hợp tác xã nông nghiệp. Xác lập chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất gắn liền với tổ chức lao động tập thể trong các hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn. Từ đây, kinh tế hộ nông dân bị coi là kinh tế phụ.

Tập thể hoá nông nghiệp được nhân thức là nhằm ngggn chặn khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, tạo ra sự thuần nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Đảng nhận định: 'Chế độ tiểu nông hàng ngày hàng giờ sinh ra chủ nghĩa tư bản' . 'Còn chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lối làm n riêng lẻ thì vẫn còn cơ sở vật chất và điều kiện xã hội cho khuynh hướng tư bản chủ nghĩa tự phát nảy nở' . Do đó, phải tiến hành tập thể hoá triệt để ruộng đất, tổ chức lại sản xuất theo hình thức lao động tập thể, chặn đứng con đường tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, góp phần củng cố liên minh công nông. Hơn nữa, phải tập trung sức lao động, tư liệu sản xuất của bần nông và trung nông lại để xây dựng một phương thức sản xuất mới, một sự phân công lao động mới.

Từ nhận thức trên đây, Đảng đã đề ra đường lối giai cấp ở nông thôn: 'Dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, hạn chế đi đến xoá bỏ sự bóc lột kinh tế của phú nông, cải tạo tư tưởng phú hông, ngggn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy ...'.

Nội dung công hữu hoá tư liệu sản xuất trước hết là tập thể hoá triệt để ruộng đất, theo đó là sức lao động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân. Ruộng đất tập thể hoá được đặt dưới sự quản lý và sử dụng của ban quản trị hợp tác xã, mà ban quản trị chủ yếu được chọn từ những thành phần bần cố nông.

Thực hiện chủ trương trên đây, Đảng đã phát động một phong trào quần chúng nhằm giải quyết vấn đề 'ai thắng ai' giữa lối làm n tập thể và lối làm n cá thể ở nông thôn.

Kết quả, trong hơn một nnnm, từ tháng 4-1959 đến mùa thu 1960, đã tập thể hoá 76% diện tích ruộng đất canh tác của 2,4 triệu hộ nông dân, chiếm 84,8% tổng số hộ nông dân miền Bắc.

Vào thời điểm nông dân đang phấn khởi với các chính sách khuyến nông của Đảng và Chính phủ, lợi ích kinh tế của hộ nông dân gắn với đất đai đang trở thành động lực kích thích phát triển sản xuất thì chúng ta tiến hành tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao động, đồng thời đặt trong một cơ chế tổ chức quản lý và điều hành tập trung. Vì vậy, mô hình sở hữu tập thể ngay từ đầu đã mang trong lòng nó những yếu kém, sự gò ép trái nguyên tắc, đã dẫn đến tan vỡ hàng loạt hợp tác xã, hàng vạn nông dân xin ra hợp tác xã , sản lượng lương thực nnnm 1960 giảm một triệu tấn, nnnng suất lúa giảm 200 kg/hécta, lương thực bình quân đầu người giảm từ 333 kg/nnnm 1959 xuống 261 kg/nnnm 1960.

Những yếu kém của mô hình tập thể hoá trên đây trước hết là do vi phạm các nguyên tắc về hợp tác hoá, đã bỏ qua nội dung kinh tế của các nguyên tắc này. Cơ sở kinh tế của nguyên tắc tự nguyện chính là sự xã hội hoá sức sản xuất, trên cơ sở đó xuất hiện nhu cầu hợp tác hoá các hộ nông dân, hợp tác ở những khâu nào có lợi nhất cho phát triển sản xuất. Song, trên thực tế là không nhận thức và cũng không dựa trên tất yếu kinh tế mà chủ yếu là xuất phát từ những tiền đề chính trị, lấy tất yếu chính trị thay cho tất yếu kinh tế để nhanh chóng tạo ra quan hệ sản xuất mà ta cho đó là chủ nghĩa xã hội, đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá.

Cơ sở kinh tế cccn bản nhất của nông dân là quyền làm chủ sử dụng ruộng đất. Trong tập thể hoá, chúng ta đã xoá bỏ ngay từ đầu cơ sở kinh tế này.

Do phân phối bình quân, lợi ích kinh tế của nông dân bị vi phạm đã dẫn đến thủ tiêu động lực sản xuất của người lao động.

Mặt khác, do 'quản lý là khâu yếu kém nhất, ruộng đất được tập thể hoá nhưng sử dụng không có kế hoạch, dẫn đến cày sâu cấy muộn, bỏ sót ruộng, nnnng suất và sản lượng thấp. Cán bộ quản lý thiếu nnnng lực do trình độ vvvn hoá thấp, không đủ kinh nghiệm quản lý sản xuất, từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế giảm sút, không hơn sản xuất cá thể'.

Mô hình sở hữu tập thể có nhiều sai trái, yếu kém, chậm được phát hiện, sửa chữa. Vì vậy, sau ba nnnm xác lập mô hình sở hữu tập thể cho thấy: việc tập thể hoá triệt để ruộng đất tất yếu dẫn đến tập thể hoá triệt để sức lao động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân. Cách làm đó đã biến nông dân từ người làm chủ ruộng đất trở thành người làm công cho ban quản trị hợp tác xã - những người chưa đủ khả nnnng và kinh nghiệm quản lý. Trong phương pháp tiến hành tập thể hoá, nông dân từ chỗ là một lực lượng sản xuất xã hội, một tiềm nnnng kinh tế to lớn trở thành đối tượng cải tạo, vì vậy đã triệt tiêu tính nnnng động, sáng tạo của họ trong sản xuất.

Từ nnnm 1961 trở đi, Đảng tập trung củng cố, tttng cường và mở rộng mô hình sở hữu tập thể, bằng một loạt cuộc vận động ở nông thôn .

Nội dung cơ bản của các cuộc vận động thể hiện trên mấy điểm sau đây:

Một là, mở rộng quy mô sở hữu tập thể về ruộng đất từ thôn lên liên thôn, đỉnh cao là quy mô toàn xã sau Hội nghị nông nghiệp ở Thái Bình tháng 8-1974.

Hai là, xác lập và thực hiện cơ chế quản lý tập trung trong kinh tế nông nghiệp từ vi mô đến vĩ mô.

Về tổ chức sản xuất, chia cắt quá trình sản xuất nông nghiệp ra nhiều công đoạn, đỉnh cao là thành lập các đội chuyên (1976-1980), tiến hành tổ chức lại sản xuất trên phạm vi toàn huyện.

Quản lý và sử dụng ruộng đất tập trung thống nhất theo chế độ sở hữu tập thể. Mọi phân biệt về lợi ích kinh tế trên đất đai đều bị xoá bỏ.

Về phân phối, thực hiện nguyên tắc 'trừ lùi' (thuế, quỹ, chi phí sản xuất, các khoản điều hoà...), còn lại chia theo ngày công, bằng hiện vật.

Ba là, cơ chế vận hành của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao động và các tư liệu sản xuất khác của nông dân bằng một bộ máy hành chính hoá, qua nhiều tầng nấc trung gian từ Trung ương xuống tỉnh, huyện, xã và hợp tác xã.

Việc điều hành và quyết định trực tiếp quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm sản phẩm là bộ máy quản lý gồm đủ các phòng, ban, đội, tổ... bộ máy này thoát ly sản xuất trở thành quan liêu hoá, song quyền lực rất lớn, quyết định toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở nông thôn.

Những chủ trương và biện pháp trên đây được triển khai trong đời sống kinh tế xã hội nông thôn miền Bắc suốt 20 nnnm (1960-1980). Tuy nhiên, trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, mô hình sở hữu tập thể cũng đã đưa lại những kết quả nhất định.

Với nền nông nghiệp lạc hậu, thoát thai từ phương thức sản xuất phong kiến, sau nhiều nnnm tập thể hoá, với nguồn vốn của Nhà nước đầu tư, vốn của tập thể và công sức của nông dân, đã xây dựng được một hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật bước đầu rất quan trọng, đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, phát triển giao thông nông thôn, khai hoang, phục hoá, cảnh quan nông thôn đã có bước thay đổi. Nhiều tiến bộ khoa học - kỹ thuật được áp dụng trong nông nghiệp, làm thay đổi tập quán và phương pháp canh tác cổ truyền, đưa lại nnnng suất cao, nhất là nnnng suất lúa. Trong thời kỳ cả nước có chiến tranh, mô hình tập thể hoá triệt để này đã trở thành một kết cấu kinh tế - xã hội cần thiết góp phần vào ổn định đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nông thôn, góp phần to lớn vào việc cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện có hiệu quả chính sách hậu phương quân đội. Sự đoàn kết tương trợ, tình làng nghĩa xóm trong nông thôn đã thiết thực cổ vũ, động viên bộ đội trên các chiến trường hoàn thành sự nghiệp vẻ vang giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Tuy vậy, xét về bản chất kinh tế, mô hình tập trung cao với các đặc trưng nêu trên có những khuyết điểm nghiêm trọng:

- Quá trình củng cố mô hình này chính là quá trình tách lao động nông nghiệp ra khỏi ruộng đất và sản phẩm cuối cùng, đỉnh cao là thời kỳ 1976-1980 mà hệ quả trực tiếp là làm tha hoá người lao động. Họ chỉ còn cách quay về làm chủ thực sự mảnh đất 5% với kinh tế gia đình.

- Kinh tế hộ nông dân bị hoà tan vào kinh tế tập thể. Các thành viên lao động trong gia đình nông dân bị xé lẻ, phân công vào các đội chuyên hoặc đội cơ bản đặt dưới sự điều hành của bộ máy quản lý tập trung. Chức nnnng kinh tế của hộ gia đình cơ bản bị thủ tiêu, chỉ còn lại chức nnnng xã hội. Lợi ích kinh tế trực tiếp của người lao động bị vi phạm đã làm mất đi sự thiết tha với ruộng đất, làm mất đi bản chất cần cù một nắng hai sương của người nông dân Việt Nam.

- Do cơ chế quản lý tập trung quan liêu, ruộng đất thuộc sở hữu và sử dụng tập thể theo kiểu 'cha chung không ai khóc' đã dẫn đến tình trạng vô chủ trong quản lý và sử dụng đất đai, gây ra lãng phí và mất đất đai nghiêm trọng. ở Nam Hà, Thanh Hoá và Hải Hưng mỗi tỉnh mất 2 vạn hécta. Trong 10 nnnm (1961-1971), mỗi tỉnh mất đi diện tích canh tác bằng diện tích hai huyện, còn đất gieo trồng ở miền Bắc mất đi bằng diện tích hai tỉnh .

Tại Hội nghị nông nghiệp ở Thái Bình (tháng 8-1974), đồng chí Lê Duẩn nhận định: Trong thời kỳ 1964-1974, 'điều đáng lưu ý là ruộng đất canh tác bị sụt đi khoảng vài chục vạn hécta do xây dựng cơ bản, làm thuỷ lợi, đắp đường. .. Cho nên, dù nnnng suất có tttng khá, nhưng tổng sản lượng lương thực cũng chỉ xoay quanh một mức nhất định, không tttng lên được nhiều, trong lúc đó dân số tttng hơn 4 triệu người'.

Theo số liệu của cục quản lý ruộng đất, nnnm 1978 cả nước có 1,4 triệu hécta đất chuyên dùng (dành cho thuỷ lợi, xây dựng cơ bản) chiếm 24% diện tích canh tác. ở các tỉnh phía bắc, đất thuỷ lợi chiếm 9% diện tích canh tác. Một số tỉnh đất hẹp, người đông, diện tích đất loại này lên đến 12% (Thái Bình, Hà Nam Ninh). Song, hiệu quả sử dụng đất làm thuỷ lợi rất thấp, 1 hécta đất làm thuỷ lợi bình quân chỉ tưới được 4,2 hécta diện tích canh tác.

Nếu tính cả những nnnm sau này, do quản lý và sử dụng ruộng đất vô trách nhiệm, trong 5 nnnm (1981-1985), diện tích đất canh tác cả nước mất đi 350.000 hécta (riêng đồng bằng sông Cửu Long 250.000 hécta), tương đương với diện tích trồng lúa của ba tỉnh miền Trung (Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên cộng lại). Đây là chưa tính việc biến đất thổ canh thành thổ cư ở địa phương nào cũng có. Riêng nnnm 1978 gần 7 vạn hécta đất 'bờ xôi ruộng mật' biến thành thổ cư.

Những khuyết điểm trên đây đã làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển chậm, không ổn định, kéo dài tình trạng tự cấp tự túc. Tiềm nnnng lao động và đất đai khai thác kém hiệu quả. Nhất là những nnnm 1976-1980, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn một cách duy ý chí đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế nông nghiệp: sản lượng lương thực suốt những nnnm 1960-1980 trên miền Bắc chỉ đạt bình quân trên dưới 5 triệu tấn/nnnm. Trong những nnnm 1976-1980 sản lượng lương thực cả nước chỉ đạt 13 triệu tấn/nnnm (miền Bắc trên 5 triệu tấn), trong khi đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV định ra chỉ tiêu phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực vào nnnm 1980.

Sản xuất nông nghiệp suy thoái như trên đã đưa đến hệ quả kinh tế là: tập thể quản lý và sử dụng 95% diện tích ruộng đất chỉ đáp ứng được dưới 50% thu nhập của hộ xã viên, còn trên 50% thu nhập của họ phải dựa vào mảnh đất 5% và kinh tế gia đình. Mảnh đất 5% trở thành 'mảnh đất thần kỳ'. NNNng suất lúa trên mảnh đất 5% phổ biến đạt 90 đến 100 tạ/hécta, trong khi ruộng đất thuộc sở hữu tập thể thì tối đa mới đạt 50-60 tạ/hécta. Đất 5% có thời kỳ chỉ coi là kinh tế phụ, thậm chí còn hạn chế sự phát triển của nó. Song, trên mảnh đất 5% đã tỏ rõ sức phát triển. ở đây, người nông dân đã kết hợp được những kinh nghiệm ngàn nnnm của ông cha với những tri thức và kỹ thuật mới mà họ có thể sử dụng cùng với sức lực, tâm huyết gắn bó với đất đai. Đất đã không phụ công người, đem lại trên 50% thu nhập cho gia đình họ.

Nguyên nhân ra đời và tồn tại của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất thể hiện trên mấy điểm sau đây:

Trước hết, do nhận thức đơn giản, giáo điều, duy ý chí về chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là: quan niệm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể, và sau này đồng nghĩa với sở hữu nhà nước, từ đó đã nóng vội muốn nhanh chóng xoá bỏ các loại hình sở hữu khác, coi đó là điều kiện tiên quyết để xây dựng chế độ kinh tế mới trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết.

Trong xây dựng kinh tế nông thôn, chỉ tuyệt đối hoá một hình thức tập thể hoá triệt để ruộng đất, theo nó là sức lao động nông nghiệp. Điều này đã làm nghèo đi nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học và sự liên minh tự nguyện giữa những người lao động tự do thành các hiệp hội.

Từ nhận thức giản đơn như vậy nên đã vận dụng một cách giáo điều học thuyết ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp và nông nghiệp, với mong muốn tạo ra quan hệ sản xuất mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đi ngược lại quy luật phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội và không phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp, một lĩnh vực sản xuất đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt quy luật sinh học.

Thứ hai, mô hình tập thể hoá tập trung cao được xây dựng và củng cố, phần nào do ảnh hưởng của nhân tố quốc tế. Những chương trình đồ sộ của Liên Xô chuẩn bị 'đi vào chủ nghĩa cộng sản', rồi 'đại nhảy vọt' của Trung Quốc và 'Thiên lý mã' của Triều Tiên... đã tác động không nhỏ đến nước ta trong việc hoạch định những chiến lược kinh tế lớn, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nông nghiệp. Những hình thức kinh tế tập thể ở những nước này, trên thực tế cho thấy là kém hiệu quả, khó đứng vững trước những thách thức, biến động về kinh tế, chính trị, xã hội.

Thứ ba, mô hình sở hữu tập thể với việc tập thể hoá triệt để, tập trung là con đẻ của cơ chế tập trung quan liêu của cả nền kinh tế. Hiện nay, việc xoá bỏ cơ chế này tất yếu phải thay đổi mô hình cũ cả về tổ chức và phương thức hoạt động.

Sau cùng, phải kể đến quy luật chiến tranh. Trong chiến tranh không trực tiếp tạo nên mô hình này, song đã góp phần củng cố nó.

b) ở miền Nam

- Đặc điểm về sở hữu ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn miền Nam sau giải phóng 1975.

Trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, do tác động của chính sách ruộng đất của chính quyền cách mạng và do sự xâm nhập ở mức độ khác nhau của chủ nghĩa thực dân mới từ thời Mỹ - ngụy, vấn đề ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn miền Nam sau giải phóng (1975) rất đa dạng và khác nhau giữa các vùng.

Miền Trung là dải đất hẹp, bình quân ruộng đất thấp, trong chiến tranh trở thành vùng tranh chấp ác liệt, nông thôn bị tàn phá nặng nề, nông dân bị đồn xúc, phân tán. Ruộng đất nhiều nơi trở thành vành đai trắng.

Tây Nguyên là vùng núi cao, phần lớn là dân tộc ít người. Cho đến ngày giải phóng, trên vùng đất này tồn tại hai bộ phận kinh tế chủ yếu: kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên mang dấu ấn của cộng đồng các thị tộc mà đơn vị sản xuất chính là các đại gia đình theo chế độ 'nhà dài'. Kinh tế đồn điền với các vùng cây công nghiệp của tư bản nước ngoài và Việt Nam kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa.

Nam Bộ sau giải phóng có những đặc điểm khác miền Bắc sau hoà bình (1954), khác miền Trung và Tây Nguyên ở cùng thời điểm. ở đây, phương thức sản xuất phong kiến về cơ bản đã bị xoá bỏ, 70% số hộ nông dân là trung nông, chiếm 80% diện tích canh tác. Họ đang trở thành lực lượng trung tâm của sản xuất nông nghiệp ở Nam Bộ. Phú nông và tư sản nông thôn chiếm khoảng từ 1 đến 4% số hộ, sở hữu khoảng 4 đến 7% ruộng đất canh tác, họ vừa kinh doanh trên ruộng đất, vừa kinh doanh dịch vụ. NNNng lực cơ khí của họ rất lớn và đang trở thành trung tâm dịch vụ kinh tế, kỹ thuật ở nông thôn. Còn lại khoảng 20% số hộ thiếu ruộng hoặc không có ruộng, cộng với hàng triệu nông dân bị chiến tranh xô đẩy vào các khu tập trung, các đô thị sau giải phóng trở về quê cũ. Tình hình đó đặt ra yêu cầu khách quan phải giải quyết vấn đề ruộng đất ở nông thôn sau chiến tranh.

Trung nông hoá phổ biến ở nông thôn Nam Bộ đã mở đường cho sự tiếp thu tiến bộ kỹ thuật . Nhiều vùng nông thôn sức sản xuất phát triển, hình thành sự phân công lao động đa dạng: sản xuất nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ, chế biến nông sản, thương nghiệp và lao động tự do. Hệ thống dịch vụ nông nghiệp, sản xuất lưu thông hàng hoá - tiền tệ đã hình thành thông suốt từ thành thị đến thôn ấp và hộ nông dân. Hệ thống này bước đầu đã gắn được nông nghiệp với công nghiệp, sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Xét về mặt xã hội hoá sản xuất thì đây là bước tiến bộ trong lịch sử sản xuất nông nghiệp ở nước ta, là tiền đề kinh tế hết sức cơ bản để từng bước chuyển nền nông nghiệp Nam Bộ sang sản xuất hàng hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa. Những đặc điểm trên đây mang tính khách quan quy định chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn Nam Bộ trước hết và cccn bản là vấn đề ruộng đất.

Chủ trương của Đảng về ruộng đất trong những nnnm 1975-1980.

Sau giải phóng (1975), Đảng chủ trương 'xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đồng nhất trong cả nước dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn' . Về vấn đề ruộng đất, Đảng chủ trương triệt để xoá bỏ tàn dư bóc lột ruộng đất của địa chủ, phong kiến, tịch thu ruộng đất của bọn phản động ác ôn có nợ máu chia cho nông dân không ruộng và thiếu ruộng; điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân gắn với cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã; tập thể hoá triệt để ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân.

Thực hiện chủ trương trên, kết quả đưa lại ở các vùng không giống nhau.

ở các tỉnh duyên hải miền Trung, đến cuối nnnm 1975 đã thu hồi 125.527 hécta ruộng đất chia cho 2 triệu nông dân. Mức chênh lệch ruộng đất giữa các hộ không đáng kể. Vì vậy, tạo thuận lợi cho quá trình điều chỉnh ruộng đất và tập thể hoá.

ở Tây Nguyên, ruộng đất chủ yếu là quốc gia công thổ và đồn điền. Việc tịch thu đất đai và quốc hữu hoá đồn điền từ tay giai cấp tư sản khá thuận lợi. Sau khi chuyển các đồn điền cây công nghiệp thành nông trường quốc doanh, còn lại một số ruộng được chia cấp tập thể, lập các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.

ở Nam Bộ, trước hết, là tịch thu ruộng đất của địa chủ, việt gian phản động chia cho nông dân. Vấn đề mới đặt ra là ruộng đất tịch thu được của địa chủ còn lại không nhiều trong khi gần hai triệu người, vốn đang hoạt động trong các lĩnh vực công thương nghiệp (phi nông nghiệp) được coi là đối tượng cải tạo công thương nghiệp phải trở về nông thôn, đòi hỏi có ruộng đất canh tác. Để có ruộng đất cấp cho đối tượng này, phải tiến hành điều chỉnh ruộng đất bằng cuộc vận động 'nhường áo sẻ cơm' theo tinh thần Chỉ thị 57 của Bộ Chính trị (tháng 1-1978). Thực chất là cắt đất của 10% số hộ trung nông khá giả để chia bình quân cho người không có ruộng.

Tiếp theo, thực hiện Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp (tháng 1-1981) và Chỉ thị 19 (tháng 5-1993) về điều chỉnh ruộng đất và cải tạo nông nghiệp Nam Bộ của Ban Bí thư trung ương, tiếp tục điều chỉnh ruộng đất của 40% số hộ trung nông có ruộng đất cao hơn mức bình quân ở địa phương.

Trong quá trình tập thể hoá, đã coi việc phân biệt lợi ích kinh tế trên đất đai của hộ nông dân là không cần thiết, nên dẫn đến tình trạng cắt đất xâm canh và xáo canh diễn ra hết sức phức tạp ở nông thôn Nam Bộ.

Như vậy, sau giải phóng, giải quyết vấn đề ruộng đất ở miền Nam đã đưa lại kết quả nhất định là hoàn thành cách mạng ruộng đất, xoá bỏ chế độ chiếm hữu và bóc lột của đế quốc và địa chủ phong kiến trên phạm vi cả nước.

Nhưng bên cạnh thắng lợi đó, trong điều chỉnh ruộng đất gắn liền với tập thể hoá, chúng ta đã mắc những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng:

Trước hết, việc điều chỉnh ruộng đất theo cách làm trên, đã vi phạm lợi ích của nông dân, đặc biệt là trung nông - nhân vật trung tâm của sản xuất nông sản hàng hoá ở Nam Bộ, những người có vốn, lao động và kinh nghiệm sản xuất, đại biểu cho lực lượng sản xuất đang phát triển ở nông thôn.

Thứ hai, việc điều chỉnh ruộng đất nhiều lần dẫn đến bình quân, xoá xâm canh, gây ra xáo canh, làm cho quá trình sản xuất hàng hoá và phân công lao động bị biến động lớn. Trên thực chất là đi ngược lại quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất, vốn là tư liệu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá. Nhiều nơi còn chia ruộng đất cho cả những người hoạt động trong các lĩnh vực phi nông nghiệp, mà việc họ tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp lại chính là kết quả tiến bộ của quá trình phân công lao động xã hội. Dù không tự giác, chúng ta làm lại cái đã qua về mặt lịch sử phát triển.

5. Thời kỳ từ nnnm 1981 đến nay.

a) Từng bước khôi phục kinh tế hộ nông dân.

Kinh tế hộ nông dân được khôi phục bằng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, thực chất là khoán hộ.

Khoán hộ trải qua những bước thhhng trầm. Từ nnnm 1962, khoán hộ đã xuất hiện trên đồng đất Đồ sơn (Hải Phòng) và sau đó ở Vĩnh Phú (1966). Do nhận thức chưa đổi mới nên khoán hộ không được thừa nhận, phải đến những nnnm 1977-1980, khi nền nông nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng thì 'khoán chui' xuất hiện phổ biến ở nhiều địa phương trên miền Bắc.

Qua tổng kết thực tiễn trên, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, thường gọi tắt là khoán 100.

'Khoán chui', một mặt, phản ánh sự bắt đầu đổ vỡ khó tránh khỏi của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao động và tư liệu sản xuất khác của nông dân; mặt khác, phản ánh tính tất yếu kinh tế - khôi phục lại chức nnnng kinh tế hộ nông dân. Khoán 100 bước đầu đáp ứng được yêu cầu khách quan này.

Nội dung cơ bản của khoán 100 thể hiện trên mấy điểm:

Mục đích: phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nnnng suất lao động, nâng cao thu nhập của người lao động.

Nguyên tắc: quản lý và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là ruộng đất, quản lý và điều hành lao động phải trên cơ sở gắn với kết quả cuối cùng của sản xuất, thực hiện khoán theo 5 khâu và 3 khâu; trong phân phối giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích người lao động.

Phạm vi: áp dụng đối với mọi loại cây trồng và vật nuôi.

Khoán 100 đã đưa lại tác dụng phân chia lại chức nnnng kinh tế giữa tập thể và hộ gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và phân phối, mở đầu cho quá trình dân chủ hoá về mặt kinh tế, bằng việc gắn bó trở lại lao động với ruộng đất, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, tạo ra động lực kích thích phát triển sản xuất. Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, khoán 100 đã phá vỡ cơ chế tập trung quan liêu trong sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian đầu, khoán 100 đã có tác dụng làm sống động nền kinh tế nông thôn và tạo ra một khối lượng nông sản lớn hơn so với thời kỳ trước.

Tuy vậy, khoán 100 cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian, sau đó giảm dần vì cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn được duy trì trong hợp tác xã, cũng như toàn bộ hệ thống tái sản xuất xã hội trong nông nghiệp. Hệ thống này cùng tính chất mệnh lệnh hành chính, mà hậu quả của nó đè lên vai người nông dân, trước hết là hộ nhận khoán. Hộ nông dân không đủ khả nnnng bảo đảm tái sản xuất và nhu cầu đời sống nên đã phải trả lại bớt ruộng đất.

Trước đòi hỏi của cuộc sống, nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ động chuyển sang khoán gọn và sau đó được Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988) xác nhận và thường gọi là khoán 10. Cùng với việc thực hiện khoán 10 là sự đổi mới toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn. Từ đây, chức nnnng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở lại. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá VI) tháng 3-1989 và Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất hàng hoá. Đổi mới hình thức và nội dung hoạt động của các hợp tác xã nhằm khai thác có hiệu quả các tiềm nnnng kinh tế hộ nông dân và nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

III. MẤY KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT

1- Vấn đề ruộng đất cần được giải quyết từng bước phù hợp với sự phát triển của cách mạng và lợi ích của nông dân


a) Nhận thức đúng vị trí của vấn đề ruộng đất và lợi ích của người nông dân trong từng thời kỳ cách mạng để đề ra chính sách ruộng đất phù hợp với thực tiễn.

Ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt không thay thế được đối với sản xuất nông nghiệp, là yêu cầu cơ bản và cấp thiết của nông dân trong mọi thời kỳ cách mạng. Giải quyết vấn đề ruộng đất và nông dân không chỉ mang ý nghĩa chính trị, mà còn mang ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đối với sự phát triển của cách mạng.

Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng giải quyết vấn đề ruộng đất và nông dân nhằm tập hợp lực lượng chính trị, tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh công - nông, để tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mặt chính trị của vấn đề ruộng đất và nông dân được đặt lên hàng đầu. Chủ trương của Đảng ta trong thời kỳ này là tịch thu ruộng đất của đế quốc, địa chủ và việt gian chia cho dân cày. Tư tưởng cơ bản của chủ trương trên là nhằm đoàn kết các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, đoàn kết với cả một bộ phận địa chủ có tinh thần yêu nước. Nhờ đó, Đảng đã tập hợp xung quanh mình một lực lượng chính trị, xã hội rộng lớn, nhân sức mạnh của giai cấp công nhân lên gấp bội, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Mặt kinh tế của vấn đề ruộng đất và nông dân được giải quyết thành công ở chỗ gắn liền với nhiệm vụ chính trị. Khẩu hiệu 'Người cày có ruộng' và chính sách cải cách ruộng đất thực chất mang nội dung kinh tế, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nông dân, đồng thời có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Vấn đề ruộng đất đã có sức lôi cuốn, động viên nông dân tham gia kháng chiến, tttng cường và củng cố liên minh công - nông và mặt trận dân tộc thống nhất. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.

Trong xây dựng đất nước, giải quyết vấn đề ruộng đất trước hết phải đáp ứng được lợi ích kinh tế của nông dân, phải đặt lợi ích kinh tế của nông dân lên hàng đầu. Chính trị phải thể hiện được yêu cầu kinh tế ấy, và chỉ khi đó chính trị mới có sức mạnh to lớn. Mối quan hệ biện chứng này được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh: nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Về vấn đề ruộng đất, chủ trương của Đảng là nhằm giải phóng toàn bộ nnnng lực sản xuất trong nông nghiệp bằng việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, coi đó là vấn đề chiến lược có ý nghĩa lâu dài và là quy luật chuyển nền kinh tế tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá. Phải xuất phát từ lợi ích của nông dân và quyền làm chủ thực sự của nông dân giải quyết vấn đề ruộng đất. Nếu trong đấu tranh giải phóng dân tọc, nông dân là một lực lượng chính trị - xã hội hùng hậu, thì trong xây dựng đất nước, nông dân là một lực lượng kinh tế to lớn góp phần quyết định vào việc thực hiện chiến lược kinh tế trong chặng đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

b) Cách mạng phát triển đến đâu thì vấn đề ruộng đất được giải quyết đến đó, tạo điều kiện cho bước phát triển mới của cách mạng.

Vấn đề ruộng đất được Đảng ta coi là yêu cầu cơ bản của nông dân. Ngay các vvvn kiện của Đảng trong thời kỳ giải phóng dân tộc (1930 - 1945), Đảng chủ trương thực hiện một bước yêu cầu đó là tịch thu ruộng đất của đế quốc, phátxít và địa chủ phản đông chia cho nông dân. Trong kháng chiến chống Pháp, vấn đề ruộng đất được thực hiện ngày càng nhiều hơn nhằm thu hẹp thế lực của đế quốc, phong kiến, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến. Khi kháng chiến đã giành được thắng lợi quyết định, vấn đề ruộng đất được giải quyết một cách triệt để bằng cải cách ruộng đất, đưa lại quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân và giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp.

Đảng giải quyết thành công nhất vấn đề ruộng đất trong thời kỳ giải phóng dân tộc và thời kỳ kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1980), đã phạm một số sai lầm về chỉ đạo chiến lược. Cụ thể là chủ quan, nóng vội trong cải tạo nông nghiệp, tiến hành công hữu hoá và tập thể hoá ruộng đất một cách triệt để, tách ruộng đất ra khỏi lao động và quyền làm chủ của người nông dân, triệt tiêu động lực sản xuất, dẫn đến khủng hoảng kinh tế nông nghiệp trong những nnnm 1976-1980.

Từ nnnm 1981 đến nay, trở lại tiếp cận thực tiễn, tiếp cận quy luật khách quan, Đảng lãnh đạo từng bước đổi mới chính sách kinh tế nông nghiệp, trước hết là chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ nông dân, nên đã tạo ra bước phát triển mới trong sản xuất nông nghiệp.

2- Giải quyết vấn đề ruộng đất phải nhằm mục tiêu giải phóng sức sản xuất, phát triển sản xuất hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Giải quyết vấn đề ruộng đất phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm nnnng kinh tế trong nông nghiệp, trước hết phải gắn được lao động với đất đai trong tất cả các thành phần kinh tế. Muốn làm được như vậy phải thực hiện dân chủ hoá về kinh tế đối với nông dân, xác lập và thể hiện được trong thực tiễn quyền làm chủ của nông dân đối với ruộng đất.

Trên cơ sở dân chủ hoá về kinh tế, hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ để xây dựng chế độ hợp tác vvvn minh. ở đây, cần hiểu chế độ hợp tác mới trong nông nghiệp bao hàm các loại hình, trình độ tổ chức, liên kết giữa các hộ nông dân, các thành phần kinh tế trên cơ sở tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và nhằm phát triển sản xuất hàng hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và không ngừng cải thiện đời sống nhân dân lao động ở nông thôn. Nói một cách khác, chế độ hợp tác mới mang tính đa dạng về hình thức, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến nnnm 2000, Đảng ta đã khẳng định: 'Kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là hợp tác xã, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành, nghề với quy mô và mức độ tập thể hoá khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp vốn, góp sức của những người lao động. Tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Một hộ gia đình có thể tham gia các hợp tác xã khác nhau và có quyền rút ra khỏi hợp tác xã theo điều lệ'.

Trong chế độ hợp tác, kinh tế hộ là tế bào của kinh tế hợp tác, ở đây kinh tế hộ không hoà tan vào kinh tế hợp tác như trước đây mà là một đơn vị kinh tế tự chủ được phát huy sở trường và khả nnnng của mình trong sản xuất - kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế hộ là điều kiện tồn tại cho kinh tế hợp tác. Ngược lại, kinh tế hợp tác chỉ có giá trị đích thực trên cơ sở những tất yếu kinh tế đòi hỏi phải có sự phân công và hợp tác của nhiều hộ mới có hiệu quả. Kinh tế hợp tác không bao trùm lên kinh tế hộ, mà hợp tác ở những khâu nào đó đòi hỏi phải có sức mạnh của kinh tế tập thể kinh doanh chung mới đem lại hiệu quả. Đây là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nâng cao đời sống nông dân và xây dựng nông thôn mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định: 'ở nông thôn, trên cơ sở tttng cường vai trò đơn vị kinh tế tự chủ của hộ xã viên, các hợp tác xã hướng hoạt động vào những khâu và lĩnh vực mà hộ xã viên không có điều kiện tự làm hoặc làm kém hiệu quả hơn kinh doanh tập thể. Cùng với chính quyền và các đoàn thể chhhm lo các vấn đề xã hội và xây dựng nông thôn mới'.

Muốn làm như vậy, kinh tế hộ gia đình phải trở thành kinh tế hàng hoá, khác về chất so với kinh tế cá thể tự cung tự cấp trước đây. Vì vậy, vấn đề ruộng đất đặt ra phải tuân theo quy luật tích tụ và tập trung ruộng đất vào tay những người làm ruộng giỏi mới giải quyết được mâu thuẫn giữa việc phân phối và sử dụng ruộng đất manh mún, bình quân, với yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Trong điều kiện ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân được Nhà nước giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài thì việc thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất có thể hiểu ra là lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm chính. Đây là một quá trình lịch sử tự nhiên dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và sự tiến bộ của phân công lao động xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chỉ rõ: 'Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Các hộ nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và cấp giấy chứng nhận. Luật pháp quy định cụ thể việc thừa kế và chuyển quyền sử dụng ruộng đất'.

3- Đổi mới quản lý vĩ mô của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân thành đơn vị sản xuất hàng hoá.

Bản thân nền kinh tế nông nghiệp, trong đó kinh tế hộ nông dân là cơ bản, tự nó không thể chuyển sang sản xuất hàng hoá được mà phải có sự quan hệ thúc đẩy, hỗ trợ của các ngành kinh tế kỹ thuật khác. Phải đặt vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó, Nhà nước với tư cách là người quản lý và điều hành vĩ mô gắn phát triển nông nghiệp với phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Đây là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình thúc đẩy sự ra đời và phát triển phân công lao động trong nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn và xây dựng nông thôn mới theo hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng chỉ rõ: 'Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội'.

Để thúc đẩy quá trình này, trước hết cần quan tâm hình thành các điểm kinh tế - kỹ thuật, các thị trấn, thị tứ ở nông thôn theo quy hoạch hợp lý. Các điểm kinh tế, kỹ thuật sẽ là môi trường và điều kiện kích thích sản xuất hàng hoá và phân công lại lao động nông nghiệp, trở thành 'động lực' thúc đẩy kinh tế, vvvn hoá, xã hội nông thôn phát triển.

Sự phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp đối với kinh tế hộ nông dân trước hết cần phải có sự đầu tư của Nhà nước trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng để mở mang giao lưu kinh tế, tạo điều kiện kích thích sản xuất hàng hoá phát triển. Sự tài trợ của Nhà nước là điều kiện hết sức cơ bản trong quá trình chuyển kinh tế hộ tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá. Vì vậy, cần có hệ thống ngân hàng tín dụng nông nghiệp với cơ chế kinh doanh mới theo hướng thúc đẩy sự phân công lao động ở nông thôn, phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp. Nhà nước phải đổi mới cơ chế chính sách để tạo ra môi trường và điều kiện cho kinh tế hộ và kinh tế hợp tác phát triển.

Đảng thực hiện chuyển giai đoạn cách mạng -Chặng đầu thời kỳ quá độ lên CNXH

Ngày 10/6/2003. Cập nhật lúc 20h 28'

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta đã xác định cách mạng nước ta phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Nhất quán theo phương hướng chiến lược trên, Đảng ta luôn khẳng định sau khi hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ sẽ dần dần chuyển lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn lịch sử gần 40 nnnm thực hiện từng bước chuyển sang giai đoạn cách mạng mới, bước đầu rút ra những kinh nghiệm thành công và chưa thành công trong chặng đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

I- THỰC HIỆN CHUYỂN GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG TRÊN MIỀN BẮC (1954-1975)

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá II) (tháng 8-1955) đã xác định: 'Đường lối xây dựng miền Bắc là củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội'.

1- Ba nnnm khôi phục kinh tế (1954-1957)

Ba nnnm khôi phục kinh tế (1954-1957) đã hoàn thành cơ bản những nhiệm vụ còn lại của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và tạo những tiền đề ban đầu từng bước chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là:

Hoàn thành cải cách ruộng đất, xoá bỏ triệt để sự chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, đưa lại ruộng đất cho nông dân, sửa chữa, khắc phục những hậu quả sai lầm trong tiến hành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Những sai lầm, khuyết điểm trên tuy có làm hạn chế sự phấn khởi trong một bộ phận nông dân, nhưng không thể làm giảm ý nghĩa chiến lược của việc đưa lại ruộng đất cho nông dân. Nó không chỉ hoàn thành hai nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ là: 'Dân tộc độc lập' và 'Người cày có ruộng', mà còn có ý nghĩa tạo ra những tiền đề kinh tế - xã hội để tiến lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tiếp quản các thành thị và vùng nông thôn mới giải phóng, đồng thời đấu tranh chống địch phản tuyên truyền, dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân di cư vào các tỉnh phía Nam còn dưới sự kiểm soát của Mỹ - Diệm. Đặc biệt là việc tiếp quản nhanh chóng hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng, bảo vệ được nhiều tài sản, những xí nghiệp sản xuất hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân, tạo không khí phấn khởi, giữ vững an ninh, trật tự. Nhanh chóng ổn định và đưa các mặt hoạt động trở lại bình thường.

Khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh với yêu cầu phấn đấu sau 3 nnnm đạt mức sản xuất trước chiến tranh (1939). Khôi phục sản xuất nông nghiệp được đặt là nhiệm vụ hàng đầu, đặc biệt là sản xuất lương thực, làm cơ sở cho việc khôi phục và phát triển công thương nghiệp.

Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp được kết hợp với hoàn thành cải cách ruộng đất và vận động nông dân đổi công, giúp đỡ nhau sản xuất. Sửa chữa sáu hệ thống thuỷ nông lớn và xây dựng hàng chục công trình thuỷ lợi hạng vừa.

Kết quả đến hết nnnm 1957, các chỉ tiêu chủ yếu về sản xuất nông nghiệp đều vượt mức nnnm 1939, là nnnm đạt cao nhất trước chiến tranh.

1939 - 1957

Thóc 2.407.000 tấn 3.948.000 tấn

Trâu 788.000 con 1.238.000 con

Bò 563.000 con 902.000 con

Lợn 2.255.000 con 2.950.000 con

Để khôi phục thủ công nghiệp và công nghiệp trước hết phải khôi phục những cơ sở sẵn có, những ngành phục vụ đời sống và sản xuất ở thành thị và nông thôn. Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được nâng từ 8,4% (1955) lên 68,8% (nnnm 1957), nhanh chóng ổn định và góp phần cải thiện đời sống nhân dân.

Giao thông vận tải được xem là điều kiện không thể thiếu trong việc phát triển sản xuất, khôi phục kinh tế, làm cho việc giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn được hình thành. Bốn tuyến đường sắt nối liền thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Bắc đã nhanh chóng được xây dựng lại. Các tuyến đường bộ, đường thuỷ đều được khôi phục.

Cùng với khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước coi trọng việc khôi phục, phát triển vvvn hoá, giáo dục. Sau ba nnnm đã có hơn một triệu người thoát nạn mù chữ. Tổng số học sinh phổ thông lên tới trên 1 triệu. Số học sinh trung học chuyên nghiệp là 7.783 người. Số sinh viên đại học lên tới 3.664 người, gấp hơn 6 lần số sinh viên thời kỳ trước chiến tranh (nnnm học 1939-1940 chỉ có 582 sinh viên), gần 2.000 học sinh được gửi đi học ở các nước.

2- Ba nnnm phát triển kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960)

Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá II) (tháng 11-1958) xác định: 'Nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống Mỹ - Diệm nhằm thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ'. Nhiệm vụ cụ thể lúc này là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Cải tạo thành phần kinh tế cá thể của nông dân và thợ thủ công bằng hình thức hợp tác xã theo nguyên tắc 'tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ'. Hình thức, bước đi phải từ thấp lên cao, tập dượt cho nông dân và thợ thủ công quen dần với lối làm n tập thể, từ tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp, tiến lên hợp tác xã bậc cao. Quy mô cũng phải từ nhỏ lên lớn. Mùa thu nnnm 1958 làm thí điểm ở 134 hợp tác xã, đến cuối nnnm 1960 lên tới 41.401 hợp tác xã với 86% số hộ nông dân và 76% diện tích canh tác. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp trong những nnnm đầu (1958-1960) có tác dụng tích cực: sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển với mức tttng trưởng bình quân 5,6%, đưa tổng sản lượng lương thực lên mức cao vào nnnm 1959 là 5,15 triệu tấn; đời sống vật chất và vvvn hoá của nông dân và nhân dân nói chung được ổn định và cải thiện một bước.

Nhưng nhìn chung các hợp tác xã còn nhiều khó khhhn, lúng túng trong việc tổ chức lao động, sản xuất và quản lý, phân phối. Một số hợp tác xã sản xuất sút kém, có những biểu hiện tiêu cực như nông dân chặt phá cây lưu niên, giết trâu bò trước khi vào hợp tác xã, một số cán bộ quản lý hợp tác xã tham ô, lạm dụng của công v.v..., làm cho xã viên thiếu phấn khởi, thiếu tin tưởng và đã có hộ xin ra hợp tác xã.

Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh bằng phương pháp hoà bình. Thực hiện chính sách chuộc lại những tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, biến chế độ sở hữu và kinh doanh tư bản chủ nghĩa thành công tư hợp doanh, cải tạo dần dần người tư sản thành người lao động, nhằm từng bước hạn chế đi tới xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về chính trị, tiếp tục coi tư sản dân tộc là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Đến tháng 11-1960 đã cải tạo 2.097 cơ sở công thương nghiệp tư bản tư doanh với tổng số vốn 25 triệu đồng, 500 người trong gia đình tư sản được sắp xếp việc làm, trong đó có 119 người được bố trí vào các ban giám đốc xí nghiệp. Sau khi đưa vốn, tư liệu sản xuất vào hợp doanh, hàng nnnm, họ được trả lãi 471.277 đồng.

Đi đôi với cải tạo các thành phần kinh tế trên, Nhà nước đã tttng cường đầu tư, phát triển kinh tế. Từ nnnm 1958 đến nnnm 1960 đã xây dựng 130 công trình công nghiệp trên hạn ngạch như gang thép Thái Nguyên, súppe phốt phát Lâm Thao... với tổng số vốn là 3.481 triệu đồng và đã đưa được 86 nhà máy, xí nghiệp vào sản xuất. Tổng số công nhân từ 46.340 người (1957) đã tttng lên 108.941 người (1960).

3- NNNm nnnm phát triển kinh tế - vvvn hoá (1961-1965)

Kế hoạch nnnm nnnm phát triển kinh tế - vvvn hoá (1961-1965) nhằm củng cố quan hệ sản xuất mới và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Cuối nnnm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, kế hoạch 5 nnnm mới thực hiện được 4 nnnm nhưng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn:

- Về nông nghiệp: 88,8% số hộ nông dân vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, trong đó có 71,7% số hộ lên hợp tác xã bậc cao. Sản xuất nông nghiệp có những tiến bộ mới cả về trồng trọt và chhhn nuôi. Phong trào thâm canh ở những vùng trọng điểm lúa đã có nhiều điển hình tốt. NNNm 1965 có 9 huyện và 125 xã đạt nnnng suất bình quân cả nnnm từ 5 tấn thóc trở lên trên 1 hécta gieo trồng hai vụ. Nhiều công trình thuỷ lợi lớn đã được xây dựng, tưới tiêu cho hơn nửa triệu hécta ruộng đất, phân bón các loại và công cụ cải tiến được đẩy mạnh phục vụ sản xuất nông nghiệp.

- Về công nghiệp: bước đầu xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, nhiên liệu, vật liệu xây dựng đã đưa vào sản xuất. NNNm 1954 chỉ có 45 nhà máy, đến nnnm 1964 đã có 1000 nhà máy (trong đó có 217 nhà máy lớn). Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh, đã sản xuất được 12.000 mặt hàng, bảo đảm được một phần quan trọng hàng tiêu dùng của xã hội mà phần lớn trước đây phải nhập khẩu.

Về vvvn hoá, giáo dục đào tạo và khoa học - kỹ thuật: đã có bước phát triển mạnh. Hầu hết các xã có trường phổ thông cấp I, cấp II, huyện có trường phổ thông cấp III. NNNm 1960 có 9 trường đại học với 8.100 sinh viên, đến nnnm 1965 đã có 18 trường với 26.100 sinh viên; đã có 21.332 cán bộ tốt nghiệp đại học và 55.000 cán bộ tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.

Về y tế, bảo vệ sức khoẻ, vệ sinh phòng bệnh: được coi trọng. Đến nnnm 1965, 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã miền núi có trạm y tế. Số bác sĩ, y sĩ, dược sĩ từ nnnm 1960 đến nnnm 1965 tttng 5 lần (nnnm 1965 có 1.525 bác sĩ và 8.043 y sĩ, trong đó có 3.220 y sĩ phục vụ ở xã).

Đời sống nhân dân: được nâng lên rõ rệt. Bình quân thu nhập quốc dân nói chung tttng lên 6,1% và bình quân theo đầu người tttng 3,4%.

Tại Hội nghị chính trị đặc biệt (tháng 3-1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: 'Trong 10 nnnm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới'.

4- Chuyển hướng xây dựng kinh tế, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn, cùng miền Nam đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai

Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành trương ương Đảng (khoá III) (tháng 3-1965) chủ trương 'chuyển hướng xây dựng kinh tế phù hợp với tình hình cả nước đang có chiến tranh với đế quốc Mỹ', theo phương châm 'vừa xây dựng kinh tế, vừa chiến đấu bảo vệ'. Cụ thể là:

Điều chỉnh lại các công trình xây dựng cơ bản, chú trọng xây dựng những xí nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp được chú trọng phát triển vừa đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong thời chiến, vừa đảm bảo hậu cần tại chỗ, phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của địch.

Sản xuất công nghiệp được đặc biệt coi trọng, đẩy mạnh thâm canh tttng nnnng suất cây trồng và vật nuôi. Chú trọng cải tiến công cụ và trang bị cơ khí nhỏ cho các khâu lao động trồng trọt và chhhn nuôi. Đã có 4.655 hợp tác xã được trang bị cơ khí nhỏ, bao gồm 6.356 máy phát lực và 9.372 máy công tác như bơm nước, tuốt lúa, máy xát, nghiền hạt, v.v..

Những nhu cầu thiết yếu nhất của sản xuất và chiến đấu được bảo đảm, đời sống nhân dân trong chiến tranh cccn bản được ổn định. Hoạt động về vvvn hoá, giáo dục và y tế phát triển hơn trước. Học sinh phổ thông tttng 130%, học sinh đại học và trung học chuyên nghiệp tttng 400%. Hệ thống bệnh viện, bệnh xá, trạm xá từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng đều khắp, bảo đảm chhhn lo sức khoẻ cho nhân dân, phòng tránh các dịch bệnh.

5- Khôi phục kinh tế sau hai lần đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1969-1975)

Khác với khôi phục kinh tế trong những nnnm 1955-1957, thời kỳ này Đảng chủ trương vừa khôi phục, vừa phát triển kinh tế, vừa khôi phục cơ sở cũ, vừa mở rộng quy mô và tttng cường trang thiết bị, đồng thời, cải tiến một bước về quản lý kinh tế, gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất đi đôi với phát triển lực lượng sản xuất.

Trong nông nghiệp, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển chhhn nuôi, chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực đối với hợp tác xã, chính sách khuyến khích cây công nghiệp v.v... Phong trào phấn đấu giành 'ba mục tiêu': 5 tấn, 2 con lợn, 1 lao động làm 1 hécta gieo trồng được đẩy mạnh trong các hợp tác xã. Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp bậc cao do Chủ tịch Hồ chí Minh đề tựa và Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua có tác dụng củng cố quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, khắc phục những khuyết điểm, lệch lạc về quản lý lao động, sản xuất và phân phối trong hợp tác xã.

Trong công nghiệp, hầu hết các xí nghiệp bị đánh phá đều được sửa chữa và sắp xếp lại dây chuyền sản xuất. Giá trị sản lượng các sản phẩm chủ yếu trong công nghiệp nặng như điện, than, xi mmmng và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng như vải, giấy v.v.. đều tttng hơn trước. Nhà nước và nhân dân đã có những nỗ lực cao trong việc khôi phục hệ thống đường giao thông, cầu phà, bến bãi, xây dựng thêm cầu đường mới để bảo đảm yêu cầu vận chuyển hàng hoá, nhất là hàng hoá chiến lược phục vụ chiến trường miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai.

Bên cạnh những kết quả và những chuyển biến tích cực trên đây, công cuộc khôi phục kinh tế thời kỳ này cũng gặp nhiều khó khhhn và bộc lộ nhiều yếu kém, tiêu cực như: sản xuất không đủ tiêu dùng, tình trạng mất cân đối vốn có của nền kinh tế càng nghiêm trọng hơn: lao động, vật tư, tiền vốn bị lãng phí nhiều, nnnng suất lao động xã hội giảm sút; bộ máy hành chính quá lớn trong khi lực lượng lao động trực tiếp sản xuất giảm đi. Tình trạng này đã ảnh hưởng không tốt đến nhiệm vụ khôi phục kinh tế và xây dựng miền Bắc vững mạnh.

Hội nghị lần thứ 19 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) (tháng 1-1971) đã nhấn mạnh: phải nghiêm khắc với những khuyết điểm chủ quan trên đây, ra sức cải tiến quản lý kinh tế nhằm đẩy mạnh tốc độ khôi phục và phát triển kinh tế. Bộ Chính trị ra nghị quyết về đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực nhằm chấm dứt những hành động làm n phi pháp, lấy cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tttng cường quản lý lao động, quản lý thị trường, giữ gìn trật tự trị an. Nhà nước ban hành các pháp lệnh trừng trị những tội phạm và hành vi phi pháp trên.

Tóm lại, hơn hai mươi nnnm phấn đấu bền bỉ và kiên cường trong tình hình đất nước có nhiều khó khhhn và biến động phức tạp, từ chiến tranh sang hoà bình xây dựng, không bao lâu lại phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt của đế quốc Mỹ, trong thế đan xen giữa những nhiệm vụ xây dựng kinh tế với chiến đấu bảo vệ, nhưng chúng ta đã đảm bảo được các nhiệm vụ đặt ra, vừa củng cố, xây dựng hậu phương vững mạnh, vừa làm tròn nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và giúp đỡ cách mạng hai nước bạn Lào và Campuchia, vừa nhanh chóng hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, vừa mở đầu những nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, tuy mới chỉ là sự mở đầu nhưng chúng ta đã làm được nhiều việc có kết quả, đời sống kinh tế, xã hội và vvvn hoá thật sự có nhiều đổi mới và tiến bộ rõ rệt. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: ' Làng xóm ta xưa kia lam lũ quanh nnnm mà vẫn quanh nnnm đói rách. Lang xóm ta ngày nay bốn mùa nhộn nhịp cảnh làm n tập thể. Đâu đâu cũng có trường học, nhà gửi trẻ, nhà hộ sinh, câu lạc bộ, sân và kho của hợp tác xã, nhà mới của xã viên. Đời sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần ngày càng tiến bộ'.

Nhưng nhìn chung, nền kinh tế miền Bắc còn nặng tính chất sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém. Những ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé, chưa đủ sức làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Quan hệ sản xuất hợp tác xã chưa được củng cố vững chắc. Nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công nghiệp. Lao động thủ công còn chiếm 80% lực lượng lao động xã hội. NNNng suất lao động xã hội rất thấp. Lực lượng lao động còn lớn chưa được sử dụng. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được các nhu cầu của đời sống nhân dân.

Nguyên nhân khách quan là do chính sách khai thác và kìm hãm của chủ nghĩa thực dân Pháp hàng trrrm nnnm và sự lỗi thời của chế độ phong kiến đè nặng gây nên tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, lại bị các cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề. Về chủ quan, Đảng và Nhà nước ta đã mắc những sai lầm, khuyết điểm về chủ trương, chính sách cụ thể và chậm được phát hiện, sửa chữa, cùng sự yếu kém về quản lý kinh tế - xã hội. Các hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 19, lần thứ 22 và 23 đã kiểm điểm, tự phê bình. Nhưng thực tế không được khắc phục, sửa chữa kịp thời nên đã tiếp tục ảnh hưởng không tốt cho thời kỳ thực hiện chuyển giai đoạn cách mạng trên cả nước sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

II- THỰC HIỆN CHUYỂN GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG TRÊN CẢ NƯỚC (1976-1986)

Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoàn thành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến lên giai đoạn cách mạng mới - xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V của Đảng đã xác định và cụ thể hoá đường lối chung và đường lối kinh tế trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta với đặc điểm xuất phát từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ và hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề trên khắp mọi miền đất nước.

1- Những thành tựu bước đầu về kinh tế - xã hội

Trải qua 10 nnnm phấn đấu, vượt qua nhiều khó khhhn, thử thách, nhân dân ta đã đạt được thành tựu mới trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc, cùng thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia anh em.

Về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, Nhà nước đã bắt đầu xây dựng và lần lượt hoàn thành mấy trrrm công trình lớn và hàng ngàn công trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi mmmng, cơ khí, dệt, thuỷ lợi, giao thông vận tải v.v... Sản xuất công nghiệp tttng bình quân hàng nnnm 9,5% trong những nnnm 1981-1985.

Sản xuất nông nghiệp đã đạt nhịp độ tttng bình quân hàng nnnm là 4,9% trong những nnnm 1981-1985, chặn được sự giảm sút của những nnnm 1979-1980 sản lượng lương thực, đưa mức bình quân hàng nnnm từ 13,4 triệu tấn trong thời kỳ 1976-1980 lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981-1985. Cùng với việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, việc đổi mới cơ chế quản lý theo phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động trong nông nghiệp đã góp phần quan trọng tạo nên bước phát triển mới của sản xuất nông nghiệp, mở ra phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ sản xuất trong hợp tác xã nông nghiệp.

Sự nghiệp vvvn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, vvvn học, nghệ thuật, đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Các hoạt động khoa học- kỹ thuật được triển khai rộng rãi, góp phần thúc đẩy sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp.

2- Thực trạng yếu kém tồn tại

Tuy đạt được những thành tựu bước đầu kể trên, sau hơn mười nnnm xây dựng đất nước ở chặng đầu thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, 'chúng ta chưa tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá thấp', nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khhhn, phức tạp, 'chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân'.

Sản xuất tuy có phát triển nhưng tttng chậm so với khả nnnng và công sức bỏ ra, so với yêu cầu nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân và có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để công nghiệp hoá và củng cố quốc phòng. Nhiều chỉ tiêu quan trọng về sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu..., thường không đạt đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và khó khhhn, cccng thẳng trong đời sống nhân dân lao động.

Hiệu quả đầu tư và sản xuất thấp. Các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng được khoảng một nửa công suất, nnnng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém.

Tài nguyên đất nước chưa được khai thác tốt, sử dụng lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng. Theo số liệu thống kê được trong 5 nnnm (1981-1985), diện tích đất canh tác cả nước bị thu hẹp mất 350.000 hécta (riêng đồng bằng sông Cửu Long mất 250.000 hécta) tương đương diện tích trồng lúa của sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.

Lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tttng nhanh, đã tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội.

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu do hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả. Các thành phần kinh tế khác nhau chưa được sử dụng và cải tạo tốt, không những không góp phần phát triển kinh tế, giải quyết công n việc làm, mà còn gây thêm khó khhhn, tiêu cực, nhất là trong hoạt động lưu thông phân phối.

Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm, pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hành động của bọn làm n phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.

Thực trạng kinh tế - xã hội trên đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành, quản lý của Nhà nước.

3- Nguyên nhân

Với tư duy mới, nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ tính chất nghiêm trọng trên và phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.

Về mặt chủ quan, Đại hội đã nêu rõ những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.

Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, đánh giá không sát tình hình các mặt kinh tế - xã hội của đất nước, nên đã đề ra mục tiêu quá cao, muốn đi lên nhanh, bỏ qua những bước đi tuần tự thích hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta khi bắt đầu thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, trong những nnnm 1976-1980, chúng ta đã đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Đại hội lần thứ V của Đảng đã bước đầu thấy được những sai lầm trên và có những sửa đổi, bổ sung một số chính sách lớn về kinh tế- xã hội, như chính sách sử dụng kinh tế nhiều thành phần, ưu tiên hơn nữa cho sản xuất nông nghiệp và ổn định đời sống nhân dân v.v. . Nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội, thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu đầu tư, về cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế.

Về cơ cấu nền kinh tế, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý. Chưa coi trọng đúng mức và đặt đúng vị trí của nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta ở chặng đầu thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong 5 nnnm 1976-1980 đã đặt những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp, dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế không sao tránh khỏi.

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với các thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, có xu hướng muốn tổ chức thành các hợp tác xã quy mô lớn, không tính đến khả nnnng về cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ quản lý và nnnng lực cán bộ. Nội dung cải tạo thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, mà không coi trọng các mặt tổ chức, quản lý sản xuất và chế độ phân phối. Cách làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả. Do đó, nhiều tổ chức kinh tế được coi là công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất chỉ là hình thức, không phải là thực chất của quan hệ sản xuất mới.

Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng chủ trương sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhưng, trong nhận thức cũng như hành động chưa thật sự được thừa nhận và thể hiện trong thực tiễn, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Về cơ chế quản lý kinh tế, từ sau Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá IV) nnnm 1979, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quyết định về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; đặc biệt là Nghị quyết 8 của Trung ương Đảng (khoá V) và Nghị quyết 306 (dự thảo) của Bộ Chính trị có ý nghĩa đổi mới sâu sắc, nhằm mở ra cách làm n mới, động viên, khai thác mọi khả nnnng tiềm tàng của nền kinh tế để phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân. Song, trên thực tế, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về cơ bản vẫn chưa bị xoá bỏ. Nhiều chính sách, thể chế đã lỗi thời, gây cản trở cho sản xuất, lưu thông. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời nảy sinh nhiều hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật.

Về phân phối lưu thông, đã không thật sự quán triệt và kiên quyết thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, gây hậu quả xấu kéo dài là không khuyến khích phát triển tài nnnng, sức lực vào việc đẩy mạnh sản xuất, tttng nnnng suất lao động. Không điều tiết hợp lý, đúng mức thu nhập của các cá nhân và thành phần kinh tế, không kiên quyết thực hiện sự tước đoạt cần thiết những thu nhập bất chính, không bảo vệ tốt tài sản quốc gia. Chậm có chính sách cơ bản về tài chính quốc gia gắn liền với những chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng, tiền lương. Không tập trung được những nguồn thu quan trọng vào ngân sách nhà nước. Các khoản chi của ngân sách mang nặng tính bao cấp, gây tình trạng bội chi kéo dài, thâm hụt ngân sách ngày càng tttng, dẫn đến lạm phát trầm trọng, làm cho lĩnh vực phân phối lưu thông luôn luôn cccng thẳng và rối ren.

Về mặt tổ chức thực tiễn, chưa tạo được sự hoạt động đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị - xã hội. Chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống các cơ quan chức nnnng chuyên chính và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thiết lập và giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội để cho pháp luật nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến. Công tác quản lý kinh tế - xã hội và chỉ đạo đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, chống những âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch thiếu sắc bén, kém hiệu quả, để phát sinh nhiều hiện tượng chính trị - xã hội phức tạp không đáng có.

Tóm lại, trên đây là những sai lầm nghiêm trọng, kéo dài, chủ yếu thuộc về những chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nói lên sự thiếu hiểu biết và còn ít kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta trong bước đầu triển khai những nội dung, nhiệm vụ kinh tế - xã hội của giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa; đồng thời lại chưa coi trọng việc tổng kết thực tiễn, đúc kết kịp thời những kinh nghiệm thành công để phát huy và kinh nghiệm không thành công để khắc phục, sửa chữa.

4- Kinh nghiệm

Từ thực tiễn cách mạng nước ta trong những nnnm qua, có thể rút ra mấy kinh nghiệm sau đây:

a) Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ phát triển biện chứng giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Định hướng chiến lược cơ bản của cách mạng nước ta là từ thắng lợi triệt để của cách mạng dân tộc dân chủ chuyển sang tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là dựa trên nhận thức khoa học về mối quan hệ phát triển biện chứng giữa nội dung, nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, giành dân chủ cho nhân dân và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba phạm trù độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, có những nội dung cụ thể xác định, có mối quan hệ phát triển biện chứng với nhau nhưng không thể đồng nhất.

Đối với nước ta, giải phóng toàn thể dân tộc khỏi ách thống trị thực dân, đế quốc, giành lại quyền độc lập của đất nước, nhưng không thể không gắn liền từng bước giành quyền dân chủ cho nhân dân, trước hết là đông đảo nhân dân lao động như nông dân, công nhân, theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nước được độc lập mà nhân dân không được hưởng dân chủ tự do, ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, nội dung, nhiệm vụ dân chủ làm được càng nhiều, càng tốt bao nhiêu thì không những giá trị, ý nghĩa của độc lập dân tộc càng cao, sự bền vững của nền độc lập dân tộc càng được củng cố mà định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hôi ngày càng có thêm nhiều tiền đồ, điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi bấy nhiêu. Từ đó, mối quan hệ phát triển biện chứng từ độc lập dân tộc, dân chủ lên chủ nghĩa xã hội không những được thể hiện như một quá trình lịch sử tự nhiên tất yếu, mà còn tỏ rõ tính tự giác và tttng thêm tính hiện thực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Nhưng thực tế quá trình thực hiện chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta trong những nnnm qua, do tư tưởng chủ quan, nóng vội chi phối, nên việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ các mặt trên đây không được đúng đắn, đầy đủ. Nếu như về nhiệm vụ giành độc lập dân tộc được thực hiện triệt để, trọn vẹn thì về mặt thực hiện những nội dung, nhiệm vụ dân chủ của nhân dân chưa được đầy đủ và có nhiều sai phạm. Ngay cả vấn đề ruộng đất của nông dân thường được đặt ở vị trí ưu tiên trong các nhiệm vụ dân chủ cũng không phải không có những hiện tượng, những việc làm mất dân chủ, thiếu công bằng. Tất nhiên, chúng ta hiểu rằng nội dung, nhiệm vụ dân chủ rất rộng, rất nhiều mặt, ở nhiều trình độ, không thể làm đầy đủ ngay được, mà còn tuỳ thuộc ở nhiều điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Nhưng không phải không có lúc chúng ta đã hiểu một cách đơn giản, cứ đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ có dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản, mà không nhận thức được rằng, chính dân chủ là điều kiện cơ bản, tiên quyết nhất để nhân dân, trước hết là công nhân, nông dân và trí thức thật sự phát huy tinh thần và nnnng lực làm chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mới có chủ nghĩa xã hội và mới có dân chủ thật sự gấp triệu lần dân chủ tư sản.

b) Phải tư duy từ thực tiễn của nước ta, tránh giáo điều, rập khuôn

Mọi suy nghĩ và việc làm phải xuất phát từ những đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của nước ta để tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp, những giải pháp sát thực. Hết sức tránh lấy mong muốn chủ quan, dù là mong muốn rất tốt đẹp, rất chính đáng thay thế cho hiện thực khách quan. Trước hết, phải hiểu thật rõ những khả nnnng, điều kiện hiện thực về kinh tế - xã hội của nước ta trong từng thời kỳ để xác định đúng những việc cần và có thể làm, sao cho vừa sát thực với đời sống kinh tế - xã hội trước mắt, vừa từng bước tạo những tiền đề, điều kiện để tiến lên lâu dài.

Trong điều kiện quốc tế ngày nay, cần mở rộng quan hệ, cần tìm hiểu, học hỏi, tham khảo những mô hình, những cách thức, những phương án, những giải pháp kinh tế - kỹ thuật của các nước, nhưng phải tránh rập khuôn, sao chép. Thực tiễn những nnnm qua cho thấy hai biểu hiện sai trái trong suy nghĩ và việc làm của chúng ta là giáo điều về nhận thức và rập khuôn về cách làm cùng tác động, gây thiệt hại không nhỏ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, muốn đưa đất nước và sự nghiệp cách mạng của chúng ta ra khỏi khó khhhn và đi lên được thì đồng thời phải đổi mới cả về tư duy và phong cách, nhằm khắc phục hai mặt sai trái trên đây.

Phải thật sự coi trọng những tiền đề, điều kiện kinh tế, vật chất trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, không nên nhấn mạnh quá mức những nhân tố chính trị, tinh thần dù là rất quý và không thể thiếu. Vì lẽ dễ hiểu là kinh tế, vật chất luôn luôn là cơ sở hạ tầng của chính chế độ chính trị - xã hội, nên nội dung chủ yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để chủ nghĩa xã hội hiện thực thật sự vận động và phát triển trên cơ sở bản thân nó, mà đây lại là mặt yếu, mặt thiếu nhất của nước ta hiện nay. Thực tế những nnnm qua, về mặt này, trên nhận thức cũng như việc làm, chúng ta chưa thật sự coi trọng đúng mức. Có lúc, có nơi chúng ta cho rằng có thể phát huy mạnh mẽ về chính trị- tinh thần, để khắc phục mặt yếu kém về kinh tế, vật chất trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhưng thực tế cho thấy, một khi những yếu kém về kinh tế, vật chất không được khắc phục cũng gây tác hại trở lại không ít đối với đời sống chính trị - tinh thần, thậm chí làm xói mòn dần mặt mạnh vốn có của chúng ta khi bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

III- THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1986-1990)

Thực hiện nghị quyết Đại hội VI, toàn Đảng, toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, khắc phục từng bước những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra những hướng mới, nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội và từng bước tiếp tục tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

1- Trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhằm khắc phục những nhận thức đơn giản và tư duy lý luận lạc hậu như: quan niệm không đúng về sản xuất hàng hoá và thị trường dưới chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta ở chặng đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng lại không thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó không chú ý vận dụng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Với tư duy kinh tế mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang coi trọng vận dụng quy luật sản xuất hàng hoá và thị trường vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Nhận thức không đầy đủ về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh quá mức về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất mà không coi trọng đúng mức các mặt quan hệ tổ chức, quản lý các quá trình sản xuất, quan hệ phân phối lợi ích, nhất là lợi ích người lao động, làm hạn chế, thậm chí triệt tiêu động lực phát triển sản xuất và tttng nnnng suất lao động; nhấn mạnh quá mức tính tập thể, tính cộng đồng trong quan hệ sản xuất mới mà không coi trọng đúng mức nhân tố cá nhân, làm triệt tiêu tính tích cực của cá nhân trong chủ nghĩa xã hội. Thiếu sự phân định đúng đắn giữa động lực cá nhân là nhân tố không thể thiếu trong mọi hoạt động của con người với chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đối lập với tập thể, cộng đồng. Cùng với sự đổi mới nhận thức về những vấn đề trên, trong mấy nnnm qua, kể từ sau Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã tập trung thực hiện nhiều đổi mới về kinh tế - xã hội, nên đã khắc phục, sửa chữa được một bước những lệch lạc, khuyết điểm, trong các thời kỳ trước đây.

Hiểu một cách giáo điều, sách vở về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhận thức không sâu, vận dụng không sát những điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, trước nhất là đặc điểm xuất phát từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản cho nên chúng ta đã có những bước đi chưa đúng, chưa phù hợp. Do đó, Đảng ta đã phải nhận thức lại và vạch ra những hình thức, bước đi vững chắc, làm nhỏ, có hiệu quả, đi lên dần, chứ không thể làm lớn, đi nhanh ngay được.

Qua thực tiễn đổi mới tư duy, Đảng ta ngày càng nhận thức đúng hơn, đầy đủ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đặc điểm kinh tế - xã hội trên quy định, mà thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải lâu dài, qua nhiều chặng với những nội dung, hình thức phù hợp, nhằm thực hiện từng bước sự cải tiến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, không được nóng vội, chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn.

2- Đổi mới về cơ chế và chính sách kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm nnnng, phát triển sản xuất, đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng và từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội

Từ nhận thức đến thực tiễn, chúng ta ngày càng cảm nhận sâu sắc chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng đã được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ V, nhưng do tư duy chưa được đổi mới nên việc triển khai vào cuộc sống còn chậm trễ.

Thực tiễn chứng minh chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là sự phản ánh đúng đặc điểm xuất phát từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ chưa qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhằm giải phóng mọi tiềm nnnng kinh tế. NNNng lực sản xuất còn nằm trong các cá nhân và đơn vị kinh tế chưa được sử dụng. Tuy nhiên, trong bước đi ban đầu còn nhiều hạn chế và cũng nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp mới trong đời sống kinh tế - xã hội, nhưng nhìn tổng thể nền kinh tế quốc dân thật sự đã có bước phát triển rõ rệt. Vốn cất giữ được đưa ra sử dụng, sức lao động nhàn rỗi được huy động, tài nguyên đất rừng, sông biển được khai phá, trồng cấy, chhhn thả ... Tuy hiệu quả kinh tế - xã hội chưa cao, chưa được như ý muốn, nhưng thật sự đã góp phần làm tttng thêm của cải xã hội, thu nhập và đời sống của nhân dân được cải thiện một bước.

Kiên quyết và dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, từng bước xây dựng và thực hiện cơ chế hạch toán kinh tế trong sản xuất - kinh doanh của các thành phần và tổ chức kinh tế. Tuy còn nhiều khó khhhn, không ít những vướng mắc do sự thiếu đồng bộ, thiếu kinh nghiệm vận hành cơ chế mới, nhưng từ ý nghĩa chiến lược của nền kinh tế đất nước đến sự trưởng thành trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của các cơ sở, các tổ chức kinh tế, đều không thể phủ nhận tính đúng đắn và triển vọng mở ra của cơ chế mới. Cơ chế mới khuyến khích, đồng thời bắt buộc mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh phải thật sự coi trọng chất lượng và hiệu quả, tttng nnnng suất lao động, giảm chi phí tiêu hao nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm, giành được lợi thế trong cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế, khắc phục sự trì trệ, thiếu nnnng động, vô trách nhiệm của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.

Với tư duy kinh tế mới, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện một bước điều chỉnh lớn về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu với sự đổi mới nhiều chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, giải phóng mọi tiềm nnnng, sức sản xuất trong nông nghiệp, như chính sách khoán sản phẩm, xoá bỏ chính sách thu mua theo định giá hành chính, tự do lưu thông và điều hoà cung - cầu lương thực, thực phẩm trên phạm vi cả nước, v.v...

Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong những nnnm thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng cơ bản của Đại hội VI, việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết việc làm, có thêm 4,2 triệu lao động sản xuất - kinh doanh. Chính sách kinh tế mới đã động viên và phát huy khả nnnng của toàn xã hội, khuyến khích người lao động tttng thu nhập và làm giàu chính đáng, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập do nnnng suất và hiệu quả lao động, tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao mức sống chung của xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực trên, cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực mới chậm được phát hiện và xử lý kịp thời. Như chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào, vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, bất công xã hội tttng lên v.v...

Đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại đã thúc đẩy nhanh và mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư sản xuất - kinh doanh với nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới với nhiều hình thức và quy mô, đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Kim ngạch xuất khẩu tttng từ 439 triệu rúp và 384 triệu đôla nnnm 1986, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đôla nnnm 1990. Từ nnnm 1989 có thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô, và một số mặt hàng khác. Tuy nhiên, thị trường quốc tế mở ra còn chậm và chưa vững chắc, chưa có nhiều mặt hàng chủ lực, có sức mạnh cạnh tranh. Thị trường xuất khẩu còn phải mở rộng, vươn lên mạnh mới đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu và trả nợ.

Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô đến các đơn vị cơ sở theo hướng mở rộng quyền tự chủ về sản xuất, kinh doanh, đã tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế và của người lao động. Bộ máy nhà nước từng bước chuyển sang thực hiện chức nnnng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành sản xuất - kinh doanh của các đơn vị cơ sở. Việc xây dựng pháp luật kinh tế được đẩy mạnh.

Cơ chế quản lý mới bước đầu được hình thành, nhưng chưa đồng bộ, còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm cho sản xuất, kinh doanh đúng hướng. Cơ chế quản lý mới chậm được tổng kết để tiếp tục thực hiện đổi mới cho tốt hơn. Sự quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước ở các cấp còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa thực hiện có hiệu quả chức nnnng định hướng, kiểm soát và điều tiết các thành phần kinh tế.

Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị được thực hiện từng bước vững chắc đồng thời với đổi mới kinh tế. Thực chất đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Về kinh tế là mở rộng quyền tự chủ của cơ sở, phát huy tiềm nnnng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật. Các hoạt động vvvn hoá, thông tin, báo chí, xuất bản đã có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đấu tranh phê phán các hiện tượng tiêu cực.

Trong sinh hoạt đảng, hoạt động của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân cũng như trong xã hội, đã có không khí sinh hoạt dân chủ, thẳng thắn, cởi mở, khắc phục dần hiện tượng dân chủ hình thức. Nhiều chủ trương, chính sách và pháp luật đã được nhân dân tham gia ý kiến trước khi quyết định.

Từ thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới, có thể nêu lên mấy kinh nghiệm bước đầu:
- Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới. Tự kiểm điểm, phê phán nghiêm khắc những khuyết điểm, sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng không phủ định những thành tựu đã đạt được. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà nhằm thực hiện tốt hơn bằng những nhận thức và việc làm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Các chủ trương, chính sách đổi mới đều phải lấy kết quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta để kiểm nghiệm, tránh giáo điều, sao chép kinh nghiệm của nước ngoài. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện của nước ta.

Triển khai công cuộc đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Từ đổi mới nhận thức, quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách về đời sống và việc làm của nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với nhiệm vụ chính trị - xã hội của nước ta.

Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tttng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, tuyên truyền, giáo dục v.v.. Chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy các tiềm nnnng sản xuất - kinh doanh trong xã hội. Song thực tế cho thấy cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi nảy sinh nhiều loại tệ nạn xã hội, những tiêu cực, nên phải thực hiện tốt vai trò quản lý của Nhà nước, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội.

Quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh. Đổi mới vì sự thành công của chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện, tránh suy nghĩ giản đơn, một chiều, đến khi thấy có vấn đề mới nảy sinh, có mặt tiêu cực mới xuất hiện thì dao động, hoang mang, muốn quay lại những cách làm cũ. Coi trọng tổng kết thực tiễn, không ngừng phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm cho công cuộc đổi mới ngày càng trở thành hoạt động tự giác và sáng tạo, bớt đi những sai lầm, bước đi quanh co, phức tạp.

Từ sau Đại hội lần thứ VI, nhờ sự phấn đấu của toàn Đảng và toàn dân ta, công cuộc đổi mới vì sự thành công của chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định và tiếp tục phát huy những thành tựu và ưu điểm đã đạt được, đồng thời hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới, đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên một cách vững chắc.