Kiên trì đẩy lùi tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Thái Nguyên

Kiên trì đẩy lùi tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Thái Nguyên

(PLVN) - Trong khuôn khổ Dự án 9, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, công tác phòng, chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài. Bởi đây là những hủ tục để lại nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho sức khỏe, giống nòi và sự phát triển bền vững của cộng đồng.

Nguy cơ hiện hữu ở những địa bàn đặc thù

Thái Nguyên là tỉnh có nhiều xã vùng cao, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số chiếm đa số, điều kiện kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn. Trong đó, xã Ba Bể là một trong những địa bàn đặc thù với 33 thôn, riêng thôn vùng cao đã chiếm tới 18 thôn; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vẫn ở mức hơn 43%.

Trên địa bàn có nhiều dân tộc cùng sinh sống như Mông, Dao, Tày…, nên nếu công tác tuyên truyền không được thực hiện thường xuyên, liên tục, nguy cơ phát sinh tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống luôn hiện hữu.

Từ thực tế đó, chính quyền địa phương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động thông qua hội nghị thôn, xã, hệ thống loa truyền thanh cơ sở và cả các nền tảng mạng xã hội. Nội dung tập trung vào quy định pháp luật về độ tuổi kết hôn, hậu quả của tảo hôn đối với sức khỏe sinh sản, chất lượng dân số và tương lai của trẻ em.

Không chỉ Ba Bể, nhiều địa bàn có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao như xã Côn Minh cũng triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa. Hiện khoảng 90% dân số xã là người dân tộc thiểu số. Chính quyền địa phương chú trọng phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình đến từng thôn, từng hộ; phát huy vai trò già làng, trưởng bản, người có uy tín; đồng thời ứng dụng mạnh mẽ các kênh truyền thông số để tuyên truyền, nhắc nhở thường xuyên. Nhờ đó, từ đầu năm đến nay, xã chưa ghi nhận trường hợp tảo hôn hay hôn nhân cận huyết thống.

Tại xã Nghiên Loan, hơn 90% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số. Tình trạng tảo hôn và kết hôn cận huyết thống chủ yếu xảy ra trong đồng bào dân tộc Mông. Nguyên nhân xuất phát từ nhận thức còn hạn chế, phong tục, tập quán lạc hậu cùng với điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ học vấn thấp, khoảng cách địa lý xa xôi. Những yếu tố này khiến hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình gặp nhiều trở ngại. Từ đầu năm đến nay, xã đã ghi nhận 3 trường hợp tảo hôn.

Câu chuyện của gia đình chị Hoàng Thị Sua, người dân tộc Mông ở thôn Tân Hợi (xã Nghiên Loan), là một ví dụ điển hình. Vợ chồng chị vốn là người trong họ (con chị ruột và con em ruột). Do thiếu hiểu biết, chưa được tuyên truyền đầy đủ, hai người đã tự nguyện đến với nhau. Hậu quả là con đầu lòng – em Lý Thanh Tân – khi sinh ra bị dị tật bẩm sinh, sức khỏe yếu, phát triển chậm hơn so với trẻ cùng trang lứa, không thể đến trường.

Chia sẻ về câu chuyện của mình, chị Sua nghẹn ngào: Vì thiếu hiểu biết và do tập tục cũ, chị và chồng vẫn quyết định kết hôn dù biết có quan hệ họ hàng gần. Chỉ đến khi con sinh ra mang dị tật bẩm sinh, chị mới thực sự thấm thía hậu quả của hôn nhân cận huyết thống.

Trưởng thôn Tân Hợi đến tuyên truyền về hệ lụy của tảo hôn và kết hôn cận huyết với người dân trong thôn.
Trưởng thôn Tân Hợi đến tuyên truyền về hệ lụy của tảo hôn và kết hôn cận huyết với người dân trong thôn.

Tình hình chung toàn tỉnh: Giảm nhưng vẫn còn đáng lo

Tính từ đầu năm, toàn tỉnh Thái Nguyên vẫn ghi nhận 25 trường hợp tảo hôn và 3 trường hợp kết hôn cận huyết thống. Con số này dù đã giảm so với giai đoạn trước nhưng vẫn cho thấy đây là vấn đề xã hội cần được quan tâm thường xuyên, liên tục và kiên trì xử lý.

Tỉnh xác định muốn kéo giảm bền vững thì không thể chỉ dựa vào từng địa phương, mà cần sự phối hợp đồng bộ của các sở, ngành và toàn hệ thống chính trị.

Sở Dân tộc và Tôn giáo được giao chủ trì phối hợp cùng Sở Y tế và các địa phương duy trì 14 mô hình điểm tại những nơi có nguy cơ cao. Đồng thời, 6 hội nghị bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật cấp xã đã được tổ chức, giúp họ nắm vững kiến thức và kỹ năng truyền thông phù hợp với đặc thù văn hóa từng dân tộc.

Hơn 13.000 tờ rơi tuyên truyền về tác hại của tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống đã được in ấn, phát hành tới tận các thôn, bản vùng cao – nơi thông tin chính thống còn hạn chế.

Phát huy sức mạnh cộng đồng và mạng lưới đoàn thể

Vai trò của các tổ chức đoàn thể, đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp, được phát huy mạnh mẽ. Toàn tỉnh hiện duy trì hàng trăm tổ truyền thông cộng đồng, hàng trăm “Địa chỉ tin cậy cộng đồng” và hơn một trăm câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi”. Những mô hình này không chỉ góp phần tuyên truyền, vận động phòng chống tảo hôn, mà còn hỗ trợ kịp thời phụ nữ và trẻ em trong các trường hợp có nguy cơ bị xâm hại quyền lợi.

Cùng với đó, ngành giáo dục và đào tạo, công an, tư pháp, y tế, đoàn thanh niên phối hợp chặt chẽ triển khai nhiều hoạt động truyền thông, giáo dục pháp luật tại trường học, khu dân cư, khu công nghiệp. Học sinh, thanh thiếu niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số được trang bị kiến thức về sức khỏe sinh sản, kỹ năng sống, quyền trẻ em và trách nhiệm pháp lý liên quan đến hôn nhân, gia đình. Qua đó, các em từng bước hình thành ý thức tự bảo vệ mình, hiểu rõ hậu quả của kết hôn sớm, biết nói “không” với tảo hôn.

Chính quyền địa phương xã Hợp Thành tổ chức tuyên truyền giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Chính quyền địa phương xã Hợp Thành tổ chức tuyên truyền giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Trong giai đoạn 2021–2025, toàn tỉnh đã tổ chức 83 hội nghị truyền thông chuyên đề về giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, thu hút hơn 8.800 lượt cán bộ cơ sở, người uy tín và thanh thiếu niên dân tộc thiểu số tham gia. Nội dung truyền thông không chỉ dừng lại ở việc phổ biến Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Trẻ em, Luật Bình đẳng giới, mà còn phân tích sâu những tác động lâu dài của tảo hôn đối với sức khỏe, thể chất, trí tuệ và sự phát triển chung của cộng đồng.

Cải thiện sinh kế – giải pháp căn cơ kéo giảm tảo hôn

Một nguyên nhân quan trọng khiến tảo hôn xảy ra là đời sống kinh tế khó khăn. Khi thanh niên thiếu việc làm ổn định, nhiều gia đình vẫn coi kết hôn sớm là một cách “giảm gánh nặng”.

Vì vậy, các chính sách hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, giải quyết việc làm ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được xem là giải pháp căn cơ. Thực tế cho thấy: khi thanh niên có nghề, có thu nhập và có mục tiêu tương lai rõ ràng, họ ít bị tác động bởi quan niệm kết hôn sớm. Nhiều bạn trẻ đã lựa chọn học nghề, đi làm, tự xây dựng cuộc sống trước khi tính chuyện lập gia đình.

Ở một số vùng sâu, điều kiện kinh tế khó khăn, tập quán lâu đời và trình độ dân trí không đồng đều vẫn là rào cản. Một bộ phận thanh niên bỏ học sớm, thiếu việc làm ổn định vẫn nằm trong nhóm nguy cơ cao nếu không được hỗ trợ kịp thời.

Trước thực tế đó, tỉnh Thái Nguyên tiếp tục xác định phòng, chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là nhiệm vụ lâu dài, cần sự kiên trì, đồng thuận và giải pháp tổng thể. Trong thời gian tới, tỉnh đặt mục tiêu duy trì mô hình điểm, nhân rộng các cách làm hay, tăng cường kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để tạo sự răn đe.

Lê Hải - Đức Thắng