Khó đòi nếu “im lặng là vàng”
Đầu năm 2001, bà Đào Thị C. (trú tại huyện Ô Môn, Cần Thơ) phát hiện cô con gái 14 tuổi tên N. của mình (bị câm bẩm sinh) có thai hơn 4 tháng. Gạn hỏi, N ra dấu cho biết đã bị người hàng xóm hiếp dâm. Bà C. làm đơn tố giác gửi Công an huyện Ô Môn yêu cầu làm rõ hành vi của người hàng xóm.
Thế nhưng, không hiểu vì sao cơ quan điều tra lại khởi tố và bắt tạm giam ông Mai Than - anh rể của bà C. về hành vi này. Năm tháng sau, N. sinh ra một bé gái. Cơ quan điều tra tiến hành giám định ADN, kết quả giám định đi ngược lại những gì cơ quan điều tra đã làm, đứa trẻ sinh ra không có gì liên quan đến ông Mai Than.
Còn cơ quan điều tra vẫn một mực cho rằng, dù đứa trẻ không phải là con ông Mai Than nhưng vẫn có cơ sở để xác định ông có hành vi hiếp dâm N. Sau đó, TAND tỉnh Cần Thơ (nay là TP. Cần Thơ) đã tuyên phạt ông Mai Than 20 năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em”.
Vụ án bị kháng cáo và sau đó Tòa phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM xử phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ điều tra lại do chứng cứ có nhiều mâu thuẫn, lời khai nhân chứng bất nhất, không đáng tin cậy.
Sau khi thụ lý lại vụ án, qua 4 lần ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra vẫn không đáp ứng, ngày 29/7/2005, TAND TP.Cần Thơ đã đưa vụ án ra xét xử và tuyên ông Mai Than không phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” và phiên phúc thẩm của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM cũng tuyên y án sơ thẩm.
Từ ngày được tuyên vô tội, ông Mai Than gửi đơn đến VKSND TP.Cần Thơ và Công an TP.Cần Thơ yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị khởi tố, truy tố oan. Thế nhưng, cả hai cơ quan này đều không có một lời phúc đáp và cứ hành xử theo kiểu “im lặng là... vàng”!
“Chạy đua” cùng thủ tục
Nếu chiếu theo Luật TNBTCNN, để thực hiện quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường, ông Than cũng như những người bị thiệt hại khác phải có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường. Để có được văn bản này, người bị thiệt hại phải làm thủ tục khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại.
Tiếp đến, người bị thiệt hại mới tiến hành thủ tục yêu cầu bồi thường theo Luật TNBTCNN. Tuy nhiên, người bị thiệt hại sẽ bị cản trở thực hiện quyền của mình nếu như cơ quan nhà nước chậm ban hành hoặc không ban hành văn bản xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật vì lý do nào đó. Tình huống này xảy ra thì việc có được văn bản để có căn cứ đòi bồi thường chả khác gì “hái sao trên trời”.
Thủ tục yêu cầu bồi thường lại phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau: Gửi đơn yêu cầu; xác minh thiệt hại; thương lượng bồi thường; khởi kiện ra tòa theo thủ tục tố tụng dân sự nếu không đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường lại; khiếu nại theo thủ tục khiếu nại của Luật Khiếu nại trong quá trình giải quyết bồi thường nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của người có thẩm quyền trong giải quyết bồi thường. Nói chung, thủ tục còn phiền phức và rất mất thời gian, dễ khiến những người bị thiệt hại nản lòng và làm cho việc thực thi Luật TNBTCNN trở nên khó khăn.
Một số ý kiến cho rằng, quy định người bị thiệt hại chỉ có quyền yêu cầu bồi thường khi có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ làm cho người bị thiệt hại gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường.
Bởi theo quy định, mặc dù đã có thiệt hại thực tế xảy ra nhưng người bị thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường ngay mà phải tiến hành các thủ tục cần thiết để có được văn bản trên thì mới được thực hiện quyền của mình.
Trong khi thời hiệu yêu cầu bồi thường là 2 năm kể từ ngày có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ còn ngắn, gây vướng mắc cho người bị thiệt hại nên cần quy định thủ tục xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ phải độc lập với thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước./.