Ngày 16/04/2015 tôi làm thủ tục nhập khẩu cho vợ tôi về hộ khẩu của tôi (tôi là chủ hộ tại địa chỉ Bế Văn Đàn, Hà Đông, Hà Nội). Tôi mang các loại giấy tờ: Giấy cắt khẩu của vợ tôi được xác nhận của công an huyện; Hộ khẩu bản gốc của tôi; Đơn đề nghị nhập khẩu cho vợ tôi vào hộ khẩu của tôi; Giấy chứng nhận kết hôn… đến nộp cho công an Quận Hà Đông và được hẹn sau 3 tuần sẽ trả lời kết quả.
3 tuần sau tôi ra lấy kết quả thì được trả lời như sau: Do xác nhận của công an khu vực nơi tôi ở cho rằng vợ tôi không ở thường xuyên tại địa chỉ tôi nhập khẩu nên không thể nhập khẩu được. Đề nghị tôi về gặp công an khu vực để giải quyết.
Thực tế vợ tôi vẫn ở tại nhà tôi trừ một số buổi có sự cố bất ngờ, vợ tôi phải vắng nhà do đặc thù công việc. Thế nên khi nhận được kết quả trên, tôi vô cùng bất ngờ. Gọi lại cho đồng chí công an khu vực, đồng chí ấy cho biết đã đến xác nhận 3 lần nhưng nhà tôi khóa cửa hoặc không có ai ở nhà… điều ấy hoàn toàn không đúng.
Tôi khẳng định là nhà tôi lúc nào cũng có người ở nhà. Nghe vậy, đồng chí công an khu vực này nói không đúng nhưng lại chẳng đưa ra được bằng chứng nào về việc đã xác nhận. Cuối cùng anh ta hẹn tôi sau 1 tháng thì đi làm lại thủ tục và qua gặp anh ta để hướng dẫn nhập hộ khẩu cả mẹ và con về cùng một lúc (lúc đó vợ tôi sắp sinh).
Khi vợ tôi sinh con được 2 tháng, tôi lại đến gặp đồng chí công an khu vực trên thì được hướng dẫn tự đi làm vì không có thời gian để làm hộ. Đồng thời đồng chí công an này nói thêm nếu tôi đi xác nhận vợ anh không ở địa chỉ nhập khẩu thì sẽ không nhập được. Tôi đã ra công an quận Hà Đông và làm thủ tục nhập khẩu cho vợ tôi, giấy hẹn ra lấy kết quả là ngày 06/07/2015.
Tôi muốn hỏi: Anh công an Khu vực trong trường hợp này làm có đúng không? Nếu anh ta tiếp tục không đồng ý cho vợ tôi nhập khẩu với lý do không ở thường xuyên tại địa chỉ tôi đang nhập khẩu thì có đúng không (thực tế vợ tôi đang ở đây)? Nếu tôi muốn kiện anh ta trong trường hợp anh ta làm sai thì thủ tục như thế nào? Tôi sẽ có bằng chứng chứng minh vợ tôi ở địa chỉ nhập khẩu bằng video trong thời gian từ ngày 15/6/2015 đến ngày 06/07/2015.
Trả lời của Luật sư:
Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 Luật cư trú năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2013) và Khoản 3 Điều 19 Luật thủ đô năm 2012 thì vợ anh Tú hoàn toàn đủ điều kiện để được nhập khẩu về hộ khẩu nhà anh Tú.
Căn cứ Điều 21 Luật Cư trú, Nghị định số 56/2010/NĐ-CP ngày 24/5/2010, Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25/6/2007 và Điều 6 Thông tư 52/2010/TT-BCA thì anh Tú sẽ nộp hồ sơ nhập hộ khẩu, đăng ký thường trú cho vợ anh tại công an quận Hà Đông – nơi anh thường trú. Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền phải cấp sổ hộ khẩu cho người đã nộp hồ sơ đăng ký thường trú; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Đối chiếu với quy định nêu trên, không có quy định nào buộc anh Tú phải lấy xác nhận của công an khu vực về việc vợ anh có sinh sống thường xuyên hay không tại địa chỉ nhà anh Tú.
Bên cạnh đó, người công an khu vực cho rằng đã đến nhà anh Tú ba lần nhưng không gặp vợ anh Tú và đã xác nhận vợ anh Tú không sinh sống thường xuyên ở nhà anh Tú. Thậm chí còn khẳng định nếu người công an khu vực xác nhận vợ anh Tú không ở địa chỉ nhập khẩu thì sẽ không nhập được khẩu cho vợ anh.
Như vậy, những hành vi này hoàn trái với các quy định của pháp luật, thậm chí có thể đó là các hành vi bị cấm được quy định tại Điều 8 của Luật cư trú. Do đó, nếu người công an khu vực hoặc cơ quan công an cấp quận vẫn tiếp tục yêu cầu có xác nhận về việc cư trú của vợ anh mới làm thủ tục nhập hộ khẩu thì anh có thể khiếu nại hoặc tố cáo hành vi này tới thủ trưởng cơ quan công an xã/phường (nơi người công an khu vực công tác) và thủ trưởng cơ quan công an quận Hà Đông (nơi cán bộ công an quận không đăng ký hộ khẩu cho anh công tác).
Trân trọng!