“Không nên lấy những ngoại lệ để phá vỡ các chế định mang tính nguyên tắc”

 Dự kiến tại Kỳ họp thứ 9 tới đây, Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) sẽ được Quốc hội thông qua. Người dân quan tâm nhất trong lần sửa đổi này là những vấn đề hết sức thiết thực như xóa bỏ thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, cơ chế đặc biệt để xem lại những bản án đã “kịch trần”... Phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam có cuộc phỏng vấn PGS.TS.Trần Văn Độ (ảnh) - Phó Chánh án TANDTC, Chánh án Tòa án Quân sự TW. 

Dự kiến tại Kỳ họp thứ 9 tới đây, Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) sẽ được Quốc hội thông qua. Người dân quan tâm nhất trong lần sửa đổi này là những vấn đề hết sức thiết thực như xóa bỏ thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, cơ chế đặc biệt để xem lại những bản án đã “kịch trần”... Phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam có cuộc phỏng vấn PGS.TS.Trần Văn Độ - Phó Chánh án TANDTC, Chánh án Tòa án Quân sự TW. 

a
PGS.TS.Trần Văn Độ - Phó Chánh án TANDTC, Chánh án Tòa án Quân sự TW
Sai sót trong giải quyết án dân sự không phải do không có sự tham gia của VKS

Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII, khi Quốc hội thảo luận về Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS, ông là một trong những người phản ứng rất “dữ” chuyện Viện kiểm sát (VKS) tham gia trong giai đoạn xét xử sơ thẩm án dân sự. Vì sao vậy, thưa ông?

Vấn đề này tôi đã từng phát biểu trên diễn đàn Quốc hội và phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng chúng tôi không ủng hộ quy định để VKS tham gia trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.

Trước đây, pháp luật nước ta cũng đã quy định VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm dân sự, cũng như cho phép Tòa án thu thập chứng cứ..., nhưng BLTTDS năm 2004 đã hủy bỏ các quy định đó. Việc phục hồi quy định vốn được coi là không phù hợp, trái với nguyên tắc các đương sự bình đẳng tuyệt đối trong vụ án dân sự, nguyên tắc tự thỏa thuận của đương sự... mà chưa được tổng kết thỏa đáng, chưa được lý giải bằng cơ sở lý luận vững chắc là sự vội vã không cần thiết.

Theo chúng tôi, những sai sót, đặc biệt là thu thập, đánh giá chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự thời gian qua không phải là do không có sự tham gia của VKS trong phiên tòa sơ thẩm như một số người quan niệm, mà do nhiều nguyên nhân khác, trong đó có những nguyên nhân quan trọng như sự chênh nhau giữa thực tiễn và pháp luật về các vấn đề thường xảy ra tranh chấp như nhà, đất đai, kinh doanh thương mại..., sự thay đổi nhanh chóng của các chính sách trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, dân sự... mà thực tiễn xét xử phải tuân theo. Hơn nữa, về mặt tố tụng, việc hạn chế thẩm quyền thu thập chứng cứ của Tòa án cũng gây ra những khó khăn, bất cập trong việc chứng minh. Tuy nhiên, tôi cho rằng các quy định của BLTTDS năm 2004 về vấn đề này vẫn đúng đắn, phù hợp.

Sẽ không có điểm dừng nếu “xóa” thời hiệu kháng nghị

Thưa ông, xuất phát từ thực tế một số vụ án sau khi hết thời hiệu quy định mới phát hiện căn cứ kháng nghị, Dự thảo Luật “nghiêng” về xóa bỏ thời hiệu. Quan điểm của ông về vấn đề này?

Quy định này được bổ sung do thực tiễn thời gian qua một số vụ án khi phát hiện căn cứ kháng nghị thì đã hết thời hiệu kháng nghị là 3 năm. Tuy nhiên, tôi cho rằng thực tiễn này cần được giải quyết bằng cách khác, chứ không thể xóa bỏ mọi thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự. Cụ thể là: Hiện nay chúng ta đã bổ sung thời hạn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm là 1 năm kể từ ngày có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Và nếu, thời hiệu kháng nghị vẫn giữ là 3 năm, thì người có thẩm quyền còn có thời hạn ít nhất là hai năm để nghiên cứu, kiểm tra, giám đốc phát hiện căn cứ kháng nghị.

Thời gian này là đủ dài để thực hiện nhiệm vụ đó. Sỡ dĩ trước đây tuy thời hiệu cũng là 3 năm nhưng vẫn có một số trường hợp hết thời hiệu mới phát hiện căn cứ kháng nghị; bởi vì, do BLTTDS năm 2004 không quy định thời hạn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm nên nhiều trường hợp gần hết thời hiệu kháng nghị thì đương sự mới viết đơn yêu cầu nên mới xảy ra tình trạng này.

Có thể hiểu ông đang lo lắng nếu không quy định thời hiệu kháng nghị sẽ dẫn đến kháng nghị tràn lan, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn?

Đúng vậy. Việc không quy định thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ tạo ra sự không ổn định xã hội, khi bất kỳ bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án đều có nguy cơ bị thay đổi ở bất kỳ thời điểm nào là cho công dân, doanh nghiệp không tự tin trong hoạt động của mình đối với nững lĩnh vực, đối tượng tranh chấp; Tòa án cấp trên phải thường xuyên xem xét, giải quyết các yêu cầu, các khiếu nại đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật từ lâu, thậm chí hàng chục năm, như có người đã nói: “Kêu cho đến khi kháng nghị thì thôi”, mà không có điểm dừng.

Vậy, nếu không sửa đổi quy định này thì giải pháp nào là tốt nhất để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho đương sự?

Ngoài việc bổ sung thời hạn yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm (1 năm), giải pháp tốt nhất trong trường hợp này có lẽ là bằng các biện pháp phù hợp về tổ chức, biên chế, con người, cơ chế nâng cao năng lực, chất lượng giám đốc xét xử, giải quyết yêu cầu của Tòa án cấp trên; nâng cao chất lượng kiểm sát của VKS đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Quyết định sai lầm thì phải sửa

Vấn đề cơ chế đặc biệt để xem xét lại các quyết định đã “kịch trần” được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, coi đây như là cơ chế để sửa sai khi cơ quan xét xử cao nhất mắc sai lầm. Ông có ủng hộ cơ chế này?

Tôi không nói là không ủng hộ cơ chế đặc biệt để xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao (TATC). Quyết định sai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con người thì hậu quả cần được khắc phục; Nhưng không nên bằng cơ chế tố tụng như Dự thảo luật, mà nên bằng các cơ chế khác  như bằng Tòa án Hiến pháp, bồi thường thiệt hại, thay đổi chính sách…

Tôi không ủng hộ cơ chế tố tụng này vì các lý do sau đây:

Về mặt lý luận, TATC là cơ quan xét xử cao nhất. Quyết định của Hội đồng thẩm phán TATC là quyết định cuối cùng không thuộc đối tượng được kiểm tra, xem xét lại về mặt tố tụng. Hay nói cách khác, về mặt tố tụng, không đặt vấn đề đúng, sai đối với các quyết định của Hội đồng thẩm phán (HĐTP) TATC và các thiết chế tố tụng khác cũng không có khả năng để làm điều đó.

Không thay đổi quyết định của HĐTP TATC là bảo đảm cho sự ổn định xã hội. Không thể vì một vài trường hợp được cho là có sai sót, mà có thể làm cho tất cả các quyết định của HĐTP phải đặt trong nguy cơ bị xem xét lại, bị thay đổi. Điều này làm cho cơ quan thi hành án, các bên đương sự thiếu tự tin trong việc thi hành quyết định đó; làm cho lòng tin của xã hội đối với cơ quan xét xử cao nhất của nước nhà, biểu tượng của công lý bị thử thách;

Cơ chế đặc biệt này được áp dụng sẽ tạo nên sự bất cập về lập pháp (các cơ quan lập pháp như UBTVQH, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội ở một góc độ nào đó được coi là cơ quan tiến hành tố tụng), tạo thêm gánh nặng không cần thiết cho một số cơ quan có thẩm quyền. Đơn yêu cầu xem xét đối với các quyết định của HĐTP sẽ tăng lên bắt buộc UBTVQH, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC (những người có thẩm quyền đề nghị) phải xem xét, giải quyết...

Vậy, điều ông mong muốn là gì trước khi bấm nút thông qua dự thảo Luật nói trên?

Theo tôi, Quốc hội cần xem xét kỹ lưỡng để quyết định về các vấn đề nêu trên. Các nguyên tắc giường cột của tổ chức hệ thống tư pháp đã được hình thành trong lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, trong đó có nước ta không có sự tranh cãi về mặt lý luận (nguyên tắc hai cấp xét xử, nguyên tắc TATC là cơ quan xét xử cao nhất, không xem xét lại quyết định của TATC, nguyên tắc bình đẳng của các đương sự, nguyên tắc tố tụng phải có điểm dừng…) thì không nên phá vỡ nếu chưa được nghiên cứu phủ nhận một cách thuyết phục.

Đồng thời, không nên lấy việc giải quyết một số rất ít các trường hợp cá biệt (mỗi năm chỉ xảy ra một vài vụ, thậm chí nhiều năm không có), ngoại lệ để phá vỡ các chế định mang tính nguyên tắc đã được xác định. 

Xin trân trọng cảm ơn ông!    

PGS.TS Trần Văn Độ, Phó Chánh án TANDTC, Chánh án Tòa án Quân sự TW, sinh ngày 20/10/1954,  quê quán:  Xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông Độ là Đại biểu Quốc hội khóa XII, Ủy viên Ủy ban Pháp luật Quốc hội.

Để nâng cao vai trò của Tòa án trong giai đoạn hiện nay, theo PGS.TS Trần Văn Độ, các Tòa án phải không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt hoạt động của mình; nhất là chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử. Đảng và Nhà nước phải thật sự coi Tòa án là trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm trong hệ thống tư pháp nước ta. Quan tâm đến xây dựng Tòa án về tổ chức, con người, bảo đảm cơ sở vật chất và chế độ, chính sách cụ thể... Bên cạnh đó, phải xây dựng được trong xã hội nhận thức Tòa án là biểu tượng của công lý...

Thu Hằng (thực hiện)