Khoa thi của những người “can tội”

Nếu phải bầu chọn một khoa thi tiêu biểu trong số các khoa thi diễn ra ở trường thi Thừa Thiên suốt 100 năm khoa cử của Triều Nguyễn, chắc chắn rất nhiều người Quảng Nam sẽ chọn khoa thi Hương năm Canh Tý (Thành Thái thứ mười hai - 1900), khoa thi của những người “can tội” sau nầy.

Nếu phải bầu chọn một khoa thi tiêu biểu trong số các khoa thi diễn ra ở trường thi Thừa Thiên suốt 100 năm khoa cử của Triều Nguyễn, chắc chắn rất nhiều người Quảng Nam sẽ chọn khoa thi Hương năm Canh Tý (Thành Thái thứ mười hai - 1900), khoa thi của những người “can tội” sau nầy.

Huỳnh Thúc Kháng (trái) và Phan Châu Trinh là hai nhà khoa bảng của khoa thi Canh Tý bị “can tội” về sau.

Nói đến truyền thống hiếu học và học giỏi của Quảng Nam, người ta thường nhắc đến khoa thi Mậu Tuất dưới triều Thành Thái thứ mười (1898), khoa thi mà Quảng Nam có 5 sĩ tử cùng thi đỗ, 3 Tiến sĩ và 2 Phó bảng. Nhưng về sau, nhiều người Quảng Nam ít mặn mà với khoa thi đã mang về danh hiệu “Ngũ phụng tề phi” cho quê hương mình này, mà lại chú ý đến một khoa thi khác tuy nhỏ hơn nhưng lại có ý nghĩa lớn lao hơn nhiều, đó là khoa thi Hương năm Canh Tý (1900). Khoa thi này có rất nhiều điều đặc biệt.

Trước hết, đây là khoa thi có rất nhiều người Quảng Nam thi đỗ và giành những vị trí cao nhất. Cả khoa lấy 42 Cử nhân thì học trò Quảng Nam đã chiếm hết 14 vị (33,3%) và giành luôn các vị trí từ thứ nhất đến thứ sáu, chỉ nhường vị trí thứ năm cho một sĩ tử của Nghệ An mà thôi. Theo thứ tự là (1) Huỳnh Thúc Kháng, (2) Nguyễn Đình Hiến, (3) Phan Châu Trinh, (4) Lê Bá Trinh, (6) Phan Thúc Duyện. Sĩ tử người Nghệ An xếp thứ năm là Phan Thúc Vĩnh.

Thứ đến, đây là khoa thi mà 4 trong số 5 vị đỗ cao nhất được chua thêm từ “can tội” phía sau tên tuổi trong Quốc triều hương khoa lục và điều này đã làm cho họ lưu danh thiên cổ. Can tội được hiểu theo cách giải thích của chính quyền đương thời là làm chính trị chống đối lại triều đình và nhà nước thuộc địa.

Tuy nhiên, đối với dân tộc, “tội” của các vị càng nặng thì công càng lớn. Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện bị kêu án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên” (chém nhưng giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về). Lê Bá Trinh thì bị “đánh 100 gậy, đày xa ba ngàn dặm, 9 năm khổ sai). Thế là 4 vị đồng hương, đồng môn, đồng khoa cả tiến sĩ, phó bảng, cử nhân này cùng đoàn viên với nhau trong “trường học thiên nhiên” giữa trùng khơi Côn Đảo không hẹn ngày về.

Đặc biệt, đây là khoa thi có đóng góp nhân sự cho tất cả các danh hiệu khác của “đất học” Quảng Nam do người đương thời tôn vinh. “Tứ tuyệt” là bốn vị đỗ từ thứ nhất đến thứ tư của khoa thi này. “Tứ kiệt” là bốn vị đỗ đầu Phó bảng khoa thi Hội năm Tân Sửu (1901), gồm Nguyễn Đình Hiến, Võ Vỹ, Nguyễn Mậu Hoán và Phan Châu Trinh. “Tứ hổ” là bốn người học hành uyên bác, trí tuệ tài hoa, có sức mạnh phi thường trong trường văn, trận bút đó là Phạm Liệu, Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng.

Cố học giả Nguyễn Văn Xuân, mặc dù vẫn ca ngợi tài học của các vị trong “Ngũ phụng tề phi” nhưng vẫn tiếc vì những vị đó chẳng để lại cho hậu thế một sự nghiệp chính trị, văn hóa, học thuật nào đáng kể. Từ đó, ông đề nghị một danh sách “Lục phụng bất tề phi” gồm các vị đại khoa xứ Quảng tuy không đỗ cùng khoa nhưng đã để lại tiếng thơm cho hậu thế, gồm:

Phạm Phú Thứ (đỗ Tiến sĩ năm 1843), Phạm Như Xương (Hoàng giáp, 1875), Nguyễn Duy Hiệu (Phó bảng, 1879), Phan Châu Trinh (Phó bảng, 1901), Trần Quý Cáp (Tiến sĩ, 1904), Huỳnh Thúc Kháng (Tiến sĩ, 1904). Trong đó, có hai nhân vật kiệt xuất đã bắt đầu con đường khoa bảng từ khoa Canh Tý (1900) là Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng.

Bên cạnh truyền thống kiên cường, cách mạng đi đầu trong sự nghiệp chống ngoại xâm, Quảng Nam còn được nhiều nhà nghiên cứu, nhà sử học xếp vào loại “đất học”. Dĩ nhiên, không thể so sánh với kinh đô Thăng Long “nghìn năm văn vật” hay với Kinh Bắc, vùng “đất học tiêu biểu” của cả nước, nơi sản sinh hàng trăm những “ông Nghè, ông Cống”, vì dù sao Quảng Nam vẫn là vùng đất mới.

“Đất học Quảng Nam” được thể hiện rõ trong Quốc triều Hương khoa lục, bộ sách nổi tiếng được một học giả tài ba là Cao Xuân Dục đứng chủ biên. Trong các khoa thi diễn ra trong suốt hơn 100 năm tại trường thi Thừa Thiên dưới triều Nguyễn, thí sinh người Quảng Nam đã đỗ 254 Cử nhân, 15 Tiến sĩ, 24 Phó bảng. Nhiều khoa thi đã để lại dấu ấn trong trong lòng người dân Quảng Nam, trong đó khoa thi Hương năm Canh Tý (1900) không chỉ khắc họa tài học của người Quảng vào lịch sử khoa bảng Việt Nam mà còn phát xuất từ đó những nhân vật kiệt xuất đã lưu nét son “can tội” vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

LÊ THÍ