Vấn đề về thu án phí, tiền phạt và các khoản phải thu khác đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù hiện nay được quy định tại Điều 128 Luật THADS. Khoản 4 Điều 169 Luật THADS cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an trong THADS. Ngoài ra, tại Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC ngày 6/2/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải THADS và trả tiền, giấy tờ cho người được THADS là phạm nhân đã quy định rõ trách nhiệm của các trại giam, các cơ quan THADS phối hợp thi hành phần quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai còn một số tồn tại, vướng mắc như tiền thi hành án tại trại giam tồn đọng tại các cơ quan THADS chưa được xử lý dứt điểm, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của phạm nhân. Một trong những nguyên nhân là do giá trị của khoản tiền do trại giam thu được rất nhỏ, chủ yếu là án phí. Trong khi đó, phạm nhân thuộc nhiều địa phương trên cả nước nộp nên cơ quan THADS rất khó xử lý, không ít trường hợp đương sự không đến nhận tiền do khoảng cách địa lý hay giá trị số tiền nhỏ.
Một nguyên nhân khác dẫn đến việc chưa xử lý dứt điểm các khoản tiền thi hành án do phạm nhân nộp tại các trại giam là khi có quyết định thi hành án chấp hành hình phạt tù của Toà án đối với bị cáo, Toà án không gửi thông báo cho cơ quan THADS biết phạm nhân đó chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trại tạm giam nào. Bên cạnh đó một số trại giam, trại tạm giam không thông báo phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại trại mình phụ trách cho cơ quan THADS biết, do đó rất khó khăn cho các cơ quan THADS khi thực hiện việc thông báo về thi hành án, thu tiền, tài sản… cho người phải thi hành án.
Mặt khác, thân nhân của người phải thi hành án khi đến các cơ quan THADS nộp tiền, tài sản thay cho người phải thi hành án không cung cấp Bản án của Toà án, Quyết định thi hành án của cơ quan THADS hay các tài liệu khác có liên quan. Điều đó rất khó khăn cho cán bộ, công chức thi hành án, phải mất nhiều thời gian tra cứu hồ sơ để có đủ cơ sở thu tiền, tài sản.
Ngoài ra, cũng có tình trạng cơ quan THADS chưa kịp thời có công văn trả lời, không gửi quyết định THADS cho trại giam; án hết thời hiệu; thân nhân phạm nhân đã nộp tại các cơ quan THADS hay ủy thác cho cơ quan dân sự khác; người được thi hành án không yêu cầu; không xác định được người bị hại; cơ quan THADS chưa nhận được bản án...
Trong khi đó, Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC nêu rõ, trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan THADS là phải gửi quyết định THADS, quyết định miễn, giảm nghĩa vụ THADS cho phạm nhân là người phải THADS thông qua trại giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện. Đồng thời gửi quyết định THADS, quyết định ủy thác THADS, quyết định miễn, giảm nghĩa vụ THADS và văn bản thông báo cho trại giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi phạm nhân là người phải THADS đang chấp hành án...
Từ thực tế trên, bên cạnh việc các cơ quan THADS và các trại giam, trại tạm giam phải tiếp tục thực hiện hiệu quả Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC thì Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp cần đề xuất hướng xử lý dứt điểm số tiền thi hành án tồn đọng mà cơ quan THADS không thể giải quyết được. Cùng với đó, cần tăng cường phối hợp với TAND các cấp để khi Toà án ra quyết định thi hành án hình phạt tù đối với bị cáo, cơ quan THADS sẽ kịp thời nắm được thông tin về nơi bị cáo chấp hành hình phạt tù để thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật đối với người phải thi hành án.