- Luật sư Đỗ Trung Kiên (Trưởng Văn phòng Luật sư Đỗ Trung Kiên và Cộng sự - Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết: Theo quy định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực ngày 1/1/2021 thì người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây: Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này; không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này.
Tại Điều 97 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về kỳ hạn trả lương như sau: Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc được trả gộp do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 15 ngày phải được trả gộp một lần; người lao động hưởng lương theo tháng được trả một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần.
Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và phải được ấn định vào một thời điểm có tính chu kỳ; người lao động hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán được trả lương theo thỏa thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hằng tháng được tạm ứng tiền lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng; trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày, nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Như vậy, việc công ty bà Vân làm việc thường xuyên trả lương không đúng thời hạn theo hợp đồng nên bà Vân có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước cho công ty.
Về nội dung bà Vân hỏi bà có được hưởng trợ cấp thôi việc khi đã làm việc tại công ty được 6 không? Theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Lao động năm 2019 về trợ cấp thôi việc thì khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 9 và 10 Điều 34 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương, trừ trường hợp đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 36 của Bộ luật này.
Như vậy, bà Vân mới làm việc cho công ty được 6 tháng (chưa đủ 12 tháng) nên bà không được hưởng trợ cấp thôi việc.