Khi cổ đông nhỏ cản đường cổ đông lớn

Việc các cổ đông nhỏ không chấp nhận thông qua một quyết định của công ty cổ phần (CTCP), công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể đẩy doanh nghiệp (DN) đến chỗ bế tắc trong kinh doanh.


Việc các cổ đông nhỏ không chấp nhận thông qua một quyết định của công ty cổ phần (CTCP), công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể đẩy doanh nghiệp (DN) đến chỗ bế tắc trong kinh doanh.

Nhỏ lại thích “chơi khó”… lớn

Cách đây 3 năm, ba người bạn là Dũng, Minh, Thắng cùng nhau góp vốn thành lập Công ty TNHH Thương mại V.H, chuyên buôn bán thiết bị văn phòng. Dũng, khá giả nhất góp 1,8 tỷ, còn Minh và Thắng mỗi người góp 600 triệu đồng.

Công ty thuê dịch vụ đăng ký kinh doanh thành lập với một bản điều lệ giống như nhiều công ty khác, theo đúng tinh thần Luật DN 2005. Khi thành lập công ty, Dũng được đề nghị giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên (HĐTV) do tính tình thận trọng, lại góp vốn lớn nhất, còn Thắng năng động, giỏi quan hệ ngoại giao được cử làm Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật, còn Minh làm Phó giám đốc kinh doanh.

Công ty V.H đã may mắn thành công trong kinh doanh, tốc độ tăng trưởng cao nhờ Thắng có khả năng ngoại giao tốt. Tuy nhiên, kể từ khi Thắng có được nhiều hợp đồng lớn thì rất nhiều việc trong công ty Dũng cảm thấy bị Thắng qua mặt. Thắng còn cùng với Minh có biểu hiện tư lợi cá nhân và quyết định nhiều việc mà không trao đổi với Dũng.

Dũng khá bức xúc và cứ tưởng mình làm Chủ tịch HĐTV thì “to” hơn Giám đốc, nhưng khi xem kỹ lại Điều lệ công ty thì nhận thấy các qui định về nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch HĐTV cũng giống như điều 49 Luật DN 2005 và chẳng có quyền hạn gì cụ thể trong công việc điều hành công ty. Dũng không hài lòng với cách làm việc của Thắng và Minh và muốn cách chức cả hai người để mình kiêm nhiệm luôn chức Giám đốc, nhưng do nhiệm kỳ Giám đốc của Thắng chưa hết và Dũng biết chắc Minh không muốn miễn nhiệm Thắng. Luật DN cũng chẳng có qui định nào để không cho Thắng hay Minh bỏ phiếu tại HĐTV đối với việc miễn nhiệm chính bản thân họ. 

Dũng đang chấp nhận việc Thắng cùng Minh thao túng công ty, chờ đợi hết nhiệm kỳ của Thắng để giành lấy chức Giám đốc. Nhưng thực tế thì lại khác, khi Thắng hết nhiệm kỳ nếu cả Thắng và Minh cùng không đồng ý cho Dũng giữ chức Giám đốc thì Dũng cũng chịu thua, vì họ đang chiếm 40% vốn điều lệ mà theo Điều lệ công ty thì các quyết định như thế cần ít nhất 65% vốn góp của thành viên dự họp chấp thuận.

Vì thế, Dũng đang tính đến việc thuê luật sư khởi kiện Giám đốc Minh ra tòa án theo Điều 19 Nghị định 102/2010/NĐ-CP, nhưng vẫn còn e ngại khả năng thắng kiện và hậu quả xảy ra với công ty mà mình đang nắm 60% vốn.

Tương tự như vậy, ba anh em nhà ông Quang nắm giữ 62% vốn cổ phần của một CTCP kinh doanh bất động sản cũng chẳng thể chi phối được công ty vì 5 người khác do ông Tuyền làm thủ lĩnh, tuy chỉ chiếm 35,2% vốn điều lệ nhưng họ ghét anh em nhà ông Quang, luôn phản đối những quyết định của ĐHĐCĐ. Họ luôn dự họp đầy đủ và đoàn kết trong bỏ phiếu, như vậy, chỉ cần 35,2% họ đã có khả năng phủ quyết đối với vấn đề ba anh em nhà ông Quang muốn thông qua.

Hai ví dụ thực tế trên cho thấy, theo đúng Luật DN 2005 thì các cổ đông nhỏ chỉ cần chiếm 35,1% vốn điều lệ của công ty sẽ có thể phủ quyết tất cả các quyết định của ĐHĐCĐ hay HĐTV. Vấn đề này đang làm nản lòng, gây bức xúc cho các cổ đông lớn trong CTCP hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên.

Bất hợp lý trong ấn định tỷ lệ biểu quyết

ĐHĐCĐ hay HĐTV là cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong công ty, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của công ty. Với mục đích bảo vệ mạnh hơn với các cổ đông thiểu số, Luật DN 2005 đã nâng tỷ lệ biểu quyết thông qua các quyết định thông thường của ĐHĐCĐ và HĐTV cao hơn so với Luật DN 1999. Đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, điều kiện thông qua quyết định của HĐTV đối với các vấn đề thông thường đã được nâng từ mức tối thiểu 51% trong Luật DN 1999 lên 65% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp.

Tương tự như vậy, điều kiện để thông qua quyết định của ĐHĐCĐ đối với các vấn đề thông thường trong CTCP, đã được nâng từ mức tối thiểu 51%  trong Luật DN 1999 lên 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất các cổ đông dự họp chấp thuận. Với các điều kiện như vậy, các cổ đông thiểu số có thể có “tiếng nói” trọng lượng hơn tại cơ quan quyền lực của các cổ đông, nhất là khi thông qua các quyết định thông thường. Các cổ đông lớn không thể phớt lờ quyền lợi của các cổ đông nhỏ. Cổ đông nhỏ qua đó cũng có thể “mặc cả” về quyền lợi khi biểu quyết thông qua các quyết định, và cũng có thể “cản đường”, chơi khó cổ đông lớn.

Nếu so sánh với luật công ty của nhiều nước trên thế giới và từ thực tiễn áp dụng trong thời gian qua tại nhiều công ty, thì Luật DN 2005 có lẽ đã thể hiện hơi quá mức việc bảo vệ cổ đông nhỏ trong việc qui định điều kiện họp hợp lệ và thông qua các quyết định của ĐHĐCĐ hay HĐTV, có thể làm cho các cổ đông lớn e ngại và đưa công ty vào tình thế khó khăn bởi vì các quyết định của công ty có thể khó được thông qua.

Luật công ty của rất nhiều nước phát triển qui định điều kiện để thông qua các quyết định thông thường của ĐHĐCĐ là ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Khi đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã phải cam kết chấp nhận cho phép trong công ty liên doanh ở một số lĩnh vực, các bên có quyền thỏa thuận tỷ lệ là 51% cho điều kiện họp hợp lệ và thông qua quyết định của ĐHĐCĐ và HĐTV.

Ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Song, việc thực hiện Nghị quyết cũng gây ra sự bối rối trong các cơ quan nhà nước và cộng đồng DN bởi vì sự thiếu rõ ràng của nó và sự bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong các loại hình DN.

Việc các cổ đông nhỏ không chấp nhận thông qua một quyết định thông thường của CTCP, trong những trường hợp nhất định, có thể đẩy DN đến chỗ bế tắc trong kinh doanh. Việc ấn định tỷ lệ biểu quyết theo tỷ lệ tối thiểu 65% và 75% theo Luật DN 2005 là bất hợp lý, hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các cổ đông, thành viên trong điều lệ công ty.

Việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông, thành viên thiểu số phải luôn được đặt trong điều kiện bảo vệ lợi ích của tất cả các cổ đông, thành viên của công ty và các chủ thể có liên quan khác. Không thể hy sinh lợi ích của nhóm cổ đông này để đảm bảo lợi ích của nhóm cổ đông khác. Vì thế nên chăng, Luật DN 2005 cần được sửa đổi theo tinh thần cam kết gia nhập WTO và áp dụng cho tất cả các công ty để đảm bảo sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư. DN&PL

Tiến sĩ  Bùi Xuân Hải  (Trưởng khoa Luật Thương mại, ĐH Luật TP HCM)