Chùa Bổ Đà nằm ở một vị trí đẹp bên sườn núi Phượng Hoàng, thuộc thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên. Chùa có nhiều tên gọi khác nhau như: chùa Bổ, chùa Quan Âm, Tứ Ân Tự… Chùa được xây dựng từ thế kỷ XI (triều Lý) khi Phật giáo đạt đến thịnh trị ở nước ta. Trải qua những cuộc chiến tranh liên miên trong suốt 7 thế kỉ đã làm cho chùa bị tàn phá nặng nề. Phải đến thời Vua Lê Dụ Tông (1705-1729) niên hiệu Bảo Thái thì chùa Bổ Đà mới được xây dựng lại và có hình hài như ngày nay.
Nhà sư Tự Tục Vinh, hiện đang trụ trì tại chùa Bổ Đà cho chúng tôi biết: “Chùa Bổ Đà là 1 trong 2 ngôi chùa ở trấn Kinh Bắc xưa chịu ảnh hưởng trực tiếp của Thiền phái Lâm Tế (cùng với chùa Bảo Quang ở huyện Quế Võ - Bắc Ninh). Chính vì thế từ nửa đầu thế kỉ 18, nhiều thiền sư, tăng ni của Thiền phái Lâm Tế đã chọn 2 ngôi chùa trên làm nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Ngày nay vườn tháp ở chùa Bổ Đà vẫn còn nguyên vẹn và trở thành vườn tháp cổ lớn nhất trong các chùa ở Việt Nam”.
Những ván kinh được xếp trên các giá ở chùa. |
Từ khi sư tổ có tên tục là Phạm Kim Hưng viên tịch đến nay, sơn môn Bổ Đà đã xây dựng tất cả 99 ngôi tháp, mộ lớn nhỏ. Trong vườn tháp ta thấy đa số là những ngôi tháp ba, bốn tầng với độ cao từ từ ba đến năm mét, riêng mấy ngôi tháp sư tổ thì đồ sộ cao rộng hơn nữa. Tàng chứa trong 99 ngôi tháp, mộ là xá lị, tro, cốt nhục thân của 1.217 nhà sư tu hành đắc đạo của dòng Lâm Tế khắp nơi trên cả nước.
Ngoài vườn tháp là nơi các tăng ni viên tịch an nghỉ thì những tổ sư của chùa cũng đã có ý tưởng khắc những bộ kinh Phật lên trên gỗ để lưu truyền cho muôn đời sau. Đồng thời bộ kinh khắc ấy cũng sẽ được dùng làm phương tiện truyền dạy đạo Phật cho các môn đồ. Theo nhà sư Tự Tục Vinh, kho mộc bản kinh Phật ở đây được khắc từ năm 1.740 đời Vua Lê Cảnh Hưng (số năm đã được đục trên ván kinh) còn sách kinh cuối cùng được khắc năm nào thì chưa rõ. Trải qua gần 3 thế kỉ kho mộc bản kinh Phật vẫn còn khá nguyên vẹn về số lượng, hình hài.
Tất cả những ván kinh ở đây đều được khắc, chạm trên chất liệu gỗ thị. Nói về đặc điểm của loại gỗ này, nhà sư Tự Tục Vinh nói:“ Ngày xưa khu vực này là vùng núi non trùng điệp, có rất nhiều cây thị mọc trong vùng. Chính vì vậy các tổ sư đã nghĩ đến việc lấy gỗ thị để khắc kinh sách. Đặc điểm của gỗ thị là nhẹ, nhưng độ bền lại cao, dai, dẻo ít khi bị mục nát. Chính vì vậy tất cả ván kinh ở chùa Bổ Đà đều được khắc trên gỗ thị”.
Về số lượng ván kinh ở chùa Bổ Đà còn tồn tại đến ngày hôm nay, chúng tôi đã tính được sơ bộ là trên 2.000 ván. Nó được xếp trên 10 giá gỗ (mỗi giá gần 200 ván kinh chia làm ba hàng) cộng với một số ván kinh được xếp bên ngoài để phục vụ khách tham quan. Các ván kinh trong kho mộc bản chùa Bổ Đà được làm theo nhiều kích cỡ khác nhau: Loại khổ nhỏ có kích cỡ 45cm x 22cm x 2,5cm (Dài-rộng-dày), loại khổ trung bình có kích cỡ 60cm x 25cm x 2,5cm và loại khổ lớn có kích cỡ lên đến 150cm x 30cm x 2,5cm hoặc 110cm x 40cm x 2,5cm. Nếu chúng ta muốn rải tất cả ván kinh ra để xem cùng một lúc thì phải có một khoảng đất trống hơn 300m2. Bộ ván kinh ở đây được khắc bằng cả chữ Hán, chữ Nôm và chữ Phạn.
Hoa văn, hình thù của nhà Phật được khắc tinh xảo trên ván kinh gỗ thị. |
Trải qua gần 3 thế kỉ, những hoa văn, chữ nổi trên ván kinh bằng gỗ thị vẫn còn rất sắc nét, không hề bị mối mọt. Không chỉ có văn tự bằng chữ khắc, mà những nghệ nhân rất tài hoa khi xưa đã chạm, khắc lên những ván gỗ các hình thù tinh xảo, điêu luyện. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy hình ảnh đức Phật tổ Thích ca tọa trên đài sen, Quan Thế Âm Bồ Tát, La Hán… trên những ván kinh ở đây.
Số lượng ván kinh ở chùa Bổ Đà tuy không lớn bằng chùa Vĩnh Nghiêm (hơn 2.000 bản so với 3.050 bản). Nhưng xét về niên đại thì một số ván kinh ở đây còn cổ xưa hơn ở chùa Vĩnh Nghiêm.
Đem những băn khoăn hỏi nhà sư Tự Tục Vinh rằng tại sao những ván kinh ấy lại không được để vào trong những tủ và đóng lại để bảo quản? Nhà sư đã nói rằng nếu cho những ván kinh ấy vào trong tủ mà không đạt tiêu chuẩn như ở chùa Vĩnh Nghiêm (Trí Yên, Yên Dũng) thì sẽ bị mối mọt và chóng hỏng hơn nên nhà chùa vẫn để nguyên hiện trạng như vậy. Nhưng chúng tôi thiết nghĩ để bảo quản kho mộc bản kinh quý hiếm này thì cũng cần có những phương pháp khoa học hơn. Đặc biệt vào những ngày lễ hội, cuối tuần đông khách thăm quan thì chuyện ai đó hiếu kỳ rút ván kinh ra xem, thậm chí có thể dẫn đến thất lạc cũng là chuyện dể xảy ra. Chúng tôi thấy để bên ngoài với số lượng ván kinh lớn như thế, nếu không có người thường xuyên vệ sinh thì những ván kinh sẽ bị bụi, bẩn và dần mờ đi những nét chữ.
Theo cơ quan chức năng ở Bắc Giang, hiện nay trong tổng thể cả một chương trình bảo tồn, bảo tàng các di sản chung của tỉnh Bắc Giang cũng có tính đến kho mộc bản ở chùa Bổ Đà. Nhưng do hiện nay, việc quản lí được phân theo nhiều cấp và kinh phí hạn hẹp nên việc bảo quản kho mộc bản như ở chùa Bổ Đà vẫn còn những hạn chế nhất định. Đồng thời kho mộc bản ở đây vẫn chưa được kiểm kê, đánh giá chính xác niên đại, số lượng, nội dung nên cũng chưa có hướng bảo quản cụ thể.
Rời mái chùa tĩnh mịch trên sườn núi, chúng tôi mong rằng kho mộc bản kinh Phật ở nơi đây sẽ sớm được các nhà khoa học, cơ quan văn hóa chức năng Bắc Giang và cả nhà chùa - nơi trực tiếp quản lí kho mộc bản sớm có những kiểm kê, đánh giá để quảng đại tới mọi người. Đồng thời cũng cần sớm quan tâm bảo quản như đã làm với kho mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm. Đó chính là những di sản, báu vật quý giá của các bậc tiền nhân để lại cho hôm nay và muôn đời sau.